Lịch sử thường quan tâm đến các sự kiện mở đầu và kết thúc triều đại. Ở Trung Quốc, người ta nói nhiều về Tần Thủy Hoàng (hoàng đế quyền uy nhà Tần) và Phổ Nghi (vua cuối cùng triều Thanh). Tại Việt Nam, vua cuối cùng triều Nguyễn là Bảo Đại cũng thường được nhắc đến.
Không có những lục lạo tìm kiếm của những nhà nghiên cứu sử, các phương tiện truyền thông, có lẽ ít người biết đến họ. Những pho sử bị bỏ quên trong thư viện, những trang sách khô khan, những dòng chữ mỏi mòn thiếp ngủ trong thời gian vô tình. Chúng dễ bị mất hút trong sự lãng quên của trần thế bận rộn…
Sau khi đất nước thống nhất, những lời đồn đại quanh Dương Văn Minh cứ lẩn quẩn như những vật nổi trôi lạc loài trong dòng xoáy của lịch sử, không bao giờ dừng lại, không bao giờ định hình.
Phải đợi đến gần đây, một số tài liệu tương đối khách quan về Dương Văn Minh mới xuất hiện. Nhờ có những trang sách, trang báo ấy, diện mạo của vị Tổng thống cuối cùng Việt Nam Cộng hòa đã bớt đi cái vẻ nhợt nhạt, thất thần. Nếu không, những phác thảo ảm đạm về ông, rải rác trên những bài báo, trên những trang tư liệu đóng băng trong các viện bảo tàng chiến tranh nào đó,… sẽ vẫn cứ còn mãi như lời phán quyết lạnh lẽo.
Mặc dù có những khác biệt về chính kiến với cách mạng, nhưng ở vào thời điểm quan trọng của vận mệnh đất nước, tướng Dương Văn Minh vẫn thể hiện mình là một người có tấm lòng và có trách nhiệm trước lịch sử.

Ông không phải là vị hoàng đế cuối cùng như Bảo Đại, ông xuất thân là một sĩ quan cấp úy trong quân đội Pháp, theo ông Ngô Đình Diệm, có công lớn trong việc dẹp Bình Xuyên và trở thành một tướng lãnh. Năm 1963, ông trở thành Quốc trưởng khi cầm đầu tướng lãnh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Lập trường trung lập của ông đã đẩy ông lưu vong. Cuối cùng lịch sử đưa đẩy ông lên ghế Tổng thống vào những ngày cuối cuộc chiến 1975, một ông Tổng thống chỉ nắm trong tay dăm ba viên tướng “không quân”, khoảng một chục ông bộ trưởng thuộc loại “ministre sans portefeuille” (quốc vụ khanh, không có quyền hành) hiểu theo nghĩa châm biếm của cụm từ này. Tuy nhiên với chừng ấy quyền hành, chừng ấy binh tướng, ông Minh đã làm được những điều đáng làm.
Việc Tổng thống VNCH Dương Văn Minh đầu hàng ở vào cái “nút” ấy, một người trong cương vị ông có thể có nhiều quyết định. Nếu quyết định khác đi, sẽ là máu đổ, sẽ là nồi da xáo thịt, cốt nhục tương tàn. Cuộc chiến còn kéo dài, Sài Gòn sẽ tan tành…
Rõ ràng, Dương Văn Minh không phải là người của cách mạng, cũng không thi hành chỉ thị nào của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nhưng ông có người em ruột là một cán bộ Việt cộng từ R về và đã nhắn gửi ông nhiều điều. Ông chưa bao giờ tỏ ra nghe lệnh em trai mình, nhưng sau đó, ông đã có những quyết định quan trọng về việc hủy bỏ ấp chiến lược, không dùng biệt kích quấy rối miền Bắc, không cho phép thả bom phá vỡ đê điều sông Hồng, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc,…
Tôi, Nguyễn Hữu Thái ghi trong hồi ký mình rằng:
“Vào năm 1964, do công tác, sinh viên chúng tôi lại có dịp hội kiến Quốc trưởng Dương Văn Minh. Nhân phút nhàn đàm về viễn tượng chiến tranh và hòa bình, tướng Minh tâm tình: ‘…Bộ các em không muốn nước Việt Nam mình trung lập như Thụy Sĩ hay sao?’. Có lẽ do những ý hướng hòa bình, trung lập kiểu đó mà tướng Minh từ năm 1964 đã sớm bị nhóm tướng Nguyễn Khánh cùng người Mỹ chủ trương leo thang chiến tranh đẩy ra khỏi chính trường miền Nam và bị lưu đày nhiều năm ở nước ngoài.
Năm 1971, tuy biết tôi là người do Mặt trận Dân tộc Giải phóng đưa ra tranh cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa làm thành phần thứ ba, ông vẫn tích cực yểm trợ tôi…
Dưới cái nhìn khách quan và công bằng của lịch sử, đáng ra tướng Minh phải được nhìn qua lăng kính một Nho sĩ, viên tướng tuy được đào tạo và trưởng thành dưới thời Pháp, nhưng về mặt chính trị, ông ta đề cao chủ nghĩa dân tộc, hoạt động theo xu hướng trung lập. Ông không đồng tình với sự đổ quân Mỹ vào miền Nam hoặc mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ông có lối sống lành mạnh, thuỷ chung, tình nghĩa gia đình, bạn hữu, trọng lễ tiết, trọng danh dự.
Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, những quyết định của ông trong tình thế dầu sôi lửa bỏng ấy thực sự đã cứu những người lính Sài Gòn, những người Việt Nam vô tội khỏi một cuộc kháng cự vô vọng, vô nghĩa và đẫm máu.
Chắc nhiều người không thể ngờ rằng, giữa lúc quân đội Sài Gòn tan tác, giữa lúc người Mỹ tháo chạy ra biển, thì chiều ngày 28 tháng 4, các tướng Nguyễn Cao Kỳ và Cao Văn Viên còn âm mưu chuẩn bị đảo chính. Và họ đã cử Linh mục Trần Hữu Thanh đến gặp Dương Văn Minh đòi nắm các bộ Quốc phòng, Nội vụ, Tài chính và Kinh tế. Điều đó chứng tỏ những thế lực hiếu chiến ở Sài Gòn lúc ấy vẫn còn muốn kháng cự.
Lúc ấy, cũng ít ai ngờ rằng, Sài Gòn, ngoài số quân cơ hữu cố định, còn có mấy trăm nghìn quân rã ngũ từ các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên đổ về. Đó là một lực lượng hỗn loạn nhưng nếu chính quyền Sài Gòn lúc ấy ngoan cố tập họp họ lại, trao vũ khí cho họ, trao lương thực tiền bạc và những lời hứa hẹn cho họ thì đó cũng là một hiểm họa không thể lường trước được”.
Vào sáng 30-4-1975, còn có một sự kiện trọng đại khác mà nay ít ai lưu ý: Lời từ chối kêu gọi sự can thiệp của cường quốc nước ngoài. Sáng ngày 30 tháng 4, khi tướng Minh vừa duyệt xong văn bản Bàn giao chính quyền thì có một người Pháp xuất hiện. Đó là tướng Vanussème, ông ta nói: “Tôi đã thu xếp xong ở Paris. Ở đó tôi đã gặp nhiều nhân vật kể cả đại sứ Trung Quốc. Đề nghị ông tuyên bố bỏ Mỹ để đi với Trung Quốc”. Lời đề nghị khiếm nhã ấy đã bị Tổng thống Dương Văn Minh từ chối. Viên tướng cò mồi bỏ đi. Tướng Minh thở dài nói với mọi người: “Mình đã lỡ theo Pháp, theo Mỹ rồi. Giờ họ lại xúi mình bán nước cho người khác, đi làm tay sai cho người Tàu sao!”. Đó là một lời than buồn nhưng đáng quý biết bao!
Bình luận về sự kiện 30-4-1975 này, Judy Stove của BBC từng nói rằng: “Một số tướng lãnh VNCH cho rằng tướng Minh đã đầu hàng nhục nhã. Nhưng không ít người lại cho đây là một hành động can đảm trước một thảm bại khó tránh khỏi có thể dẫn đến sự tàn phá hoàn toàn Sài Gòn”.
Gần đây, đài này khi điểm cuốn sách của nhà báo Pháp Paul Dreyfus (Et Saigon tomba – Collection
Témoignages 1975 – Và Sài Gòn thất thủ – Sưu tập chứng liệu 1975) người đã từng nhiều lần phỏng vấn tướng Dương Văn Minh vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, đã ghi lại nhận xét của nhà báo:
“Có lúc nào, ở thời khắc ngắn ngủi những ngày trước, tướng Minh đã nghĩ là khả thi thỏa thuận được một cuộc đàm phán? Tôi không tin. Trong lần gặp gần nhất với ông, khi chưa nắm bộ máy quyền lực, tôi nhận thấy ông đã nghĩ rằng việc đầu hàng là không tránh khỏi. Song không nghi ngờ gì, tướng Minh hy vọng có thời gian để dàn xếp thể thức ra sao.
Bằng việc gạt qua cá nhân mình, tướng Minh đã chấp nhận trong con mắt của lịch sử, là một viên tướng đầu hàng không điều kiện, để tránh cho đất nước của ông những đớn đau không cần thiết.
Vai trò của ông đã hết. Thật ngắn ngủi. Song chúng ta nợ sự đánh giá lại về một con người tỉnh táo và can đảm này”.
Có lẽ bà Nguyễn Thị Bình (từng là Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và sau này là Phó Chủ tịch nước) là nhân vật cách mạng đánh giá chính xác về Dương Văn Minh nhất khi nói rằng : “Hành động của ông Dương Văn Minh là thức thời và thể hiện ông là người có lòng yêu nước.”⁽¹⁾
Trong hồi ký Gia đình Bạn bè Đất nước của mình, bà Bình viết rõ hơn về tướng Dương Văn Minh:
“Về vai trò của ông Dương Văn Minh, một văn bản của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã đánh giá: ‘Mặc dù ông Dương Văn Minh chưa đáp ứng được yêu cầu của ta, nhưng tuyên bố của ông và nhật lệnh của ông Nguyễn Hữu Hạnh cũng đã có tác dụng nhất định, làm giảm ý chí đề kháng của đại bộ phận quân đội Sài Gòn vào giờ chót của chiến tranh, tạo điều kiện cho quân ta tiến nhanh giải phóng Sài Gòn…’.
Tôi cho rằng không nên tách ông Dương Văn Minh và nội các của ông ra khỏi nhóm Dương Văn Minh mà 80% là những người có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp, thậm chí là cơ sở của cách mạng trong thành phố Sài Gòn.
Ông Vũ Văn Mẫu, người đã cạo trọc đầu để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo khi ông làm Ngoại trưởng năm 1963, người đã trực tiếp gặp anh Phạm Văn Ba tại Paris, là đương kim Chủ tịch Phong trào Hòa giải Hòa hợp của Phật giáo Ấn Quang đã được ông Minh cử làm Thủ tướng.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh, nguyên Chuẩn tướng quân đội Việt Nam Cộng hòa, một cơ sở nòng cốt đắc lực của Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam, được ông Minh phong quyền Tổng Tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn. Khi cuộc tổng tấn công vào Sài Gòn của quân ta đang thần tốc triển khai.
Luật sư Triệu Quốc Mạnh, một đảng viên Cộng sản nằm vùng được ông Minh giao chức Tổng chỉ huy Cảnh sát đô thành có nhiệm vụ phải nhanh chóng thả tù chính trị và làm tan rã lực lượng cảnh sát của chính quyền cũ…”
Câu chuyện dài về Dương Văn Minh, tôi nghĩ vẫn chưa có thể khép lại, vì lịch sử hiện đại đất nước còn nợ một sự đánh giá công bằng hơn về vịtướng VNCH từng làm sụp đổ hai nền cộng hòa Sài Gòn này.
Có lẽ ghi nhận của tác giả Trần Văn Chánh về Dương Văn Minh là công bằng và chính xác nhất:
…“Rõ ràng, ông Dương Văn Minh đầu hàng “giặc” không phải để được vinh thân phì gia, vì ai cũng biết, sau khi hoàn tất trách nhiệm trước lịch sử và lui khỏi chính trường, ông đã sống cuộc đời ẩn dật nơi nước ngoài với con cái, không phát biểu về chính trị, không viết hồi ký để kiếm tiền, chấp nhận cuộc sống nghèo bình thường, từ chối mọi sự trợ cấp từ phía các chính phủ Pháp, Mỹ mà ông đã có thời gian từng phục vụ. Ông không giống như một vài vị tướng khác, suốt ngày đeo cái lon tướng để được tiếp tục nhận sự vinh danh cho tới chết mới thôi, mặc dù nhiệm vụ lịch sử đã hoàn thành từ rất lâu.
“Ngày nay, xét diễn biến các sự kiện, đa số người ta đều thừa nhận việc đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh cùng nội các của ông chẳng những không nhục nhã mà còn là hành động sáng suốt thức thời. Điều này về sau đã được cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt công khai thừa nhận trong một lần trả lời cuộc phỏng vấn liên quan đến vấn đề đang xét của tuần báo Quốc Tế (Bộ Ngoại giao) nhân dịp 30-4-2005. Có lần ông Kiệt chia sẻ với cựu dân biểu Lý Quý Chung: ‘Ông Minh là một con người tốt và có lòng yêu nước…’ (Hồi ký không tên, tr. 447)…

“Con trai ông Dương Văn Minh, kỹ sư Dương Minh Đức, có lần được hỏi ý kiến nhận xét sự kiện lịch sử ngày 30-4-1975 và về người cha của mình, đã phát biểu: “Tôi rất yêu quý ba tôi… Thứ nhất, ông là vị tướng sống trong sạch, không chấp nhận chuyện tham nhũng; thứ hai, trong nguyên tắc tìm giải pháp hòa bình cho đất nước Việt Nam, theo ông phải do chính người Việt Nam tự giải quyết. Tôi hiểu quan điểm của ba tôi luôn đặt dân tộc và sinh mệnh nhân dân trên hết. Chính vì vậy, ông không ngại đứng ra đảm nhận vai trò Tổng thống trong buổi hoàng hôn của một chế độ… Ba tôi là người luôn chủ trương hòa giải, hòa bình dân tộc và ông đã bác bỏ ý kiến của một số người yêu cầu ‘tử thủ’ Sài Gòn. Tôi tin rằng đây là quan điểm xuyên suốt trong cuộc đời chính trị của ông ‘yêu nước trước hết là phải cứu dân’ (theo tạp chí Hồn Việt, 01-6-2009)…”
CHÚ THÍCH:
⁽¹⁾ Nguyễn Thị Bình, Bạn bè Gia đình Đất nước, Nxb. Tri thức, 2017, tr 207.