Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Phan Bội Châu rất có ý thức sử dụng văn thơ nhằm cổ vũ, động viên, hiệu triệu tinh thần yêu nước, đoàn kết toàn dân xông lên quyết một phen sống mái với đế quốc Pháp, giành lại chủ quyền dân tộc, khôi phục non sông của tổ quốc con Hồng cháu Lạc.

Vì vậy, trừ những tác phẩm đã được công bố hồi cụ còn ở nước ngoài ra, số còn lại là những “sách cấm” của chế độ thực dân Pháp, nên chúng đã trở thành những tập di cảo sau khi cụ qua đời (1940); trong đó có những tác phẩm vô cùng quý giá như tác phẩm Phan Bội Châu niên biểu, Trùng Quang tâm sử (viết bằng chữ Hán), Việt Nam quốc sử bình diễn ca (Viết bằng chữ Quốc ngữ),… Theo nghiên cứu của chúng tôi, cả ba tác phẩm nêu trên đã từng lưu lạc, “ngủ quên” trong lòng nhân dân ở huyện Nam Đàn đến hàng chục năm, thậm chí có tác phẩm “ngủ yên” trong hàng nửa thế kỷ. Gần đây nhất, chúng tôi đã được tiếp xúc một tập di cảo viết bằng chữ Quốc ngữ của cụ dày hơn 300 trang, khổ giấy cỡ 34x22cm với tiêu đề là Phan Bội Châu văn tập. Theo Giáo sư Đặng Thai Mai, thì cụ Phan trước lúc mất, đã di chúc lại cho con cháu phải tìm mọi cách đưa đi khỏi nhà cụ ở Bến Ngự (Huế) các tác phẩm này bằng cách gửi cho ai đó cất giữ ở Huế, ở Nam Đàn,… Ông Phan Nghi Huynh, con trưởng của cụ, đã thực hiện nghiêm túc việc này. Nhưng rủi thay, ông đã qua đời vào năm 1946. Từ đó, các tác phẩm nêu trên đã lưu lạc truyền từ tay người này sang tay người khác. Mãi đến những năm thập kỉ 50 của thế kỷ trước mới có người phát hiện, có tác phẩm sang đầu thế kỷ XXI mới tìm ra. Sau đây là quá trình phát hiện từng tập di cảo của cụ.
Phan Bội Châu niên biểu
Tác phẩm này cụ Phan viết xong vào khoảng năm 1929, với tiêu đề ban đầu là Phan Bội Châu tự phán. Giáo sư Đặng Thai Mai có kể “lai lịch ra đời” của tác phẩm này như sau: “…Cụ Phan sợ bị mật thám xét lấy mất, mới nghĩ ra một kế để đánh lừa chính quyền Pháp và Nam triều. Từ ngày cụ về nước đến nay, có mươi, mười lăm thanh niên, thiếu niên đến nhà học chữ Nho. Cụ mới lấy một quyển sách cũ của học sinh, lộn từng tờ lại, rồi tối đến thì viết, sáng mai đóng lại như cũ. Viết được phần nào thì cho bạn chí thân xem. Vì là bản nháp, nên có nhiều chỗ phải chép đi chép lại 2-3 lần. Trong sách có phần chữ cụ Phan, có phần chữ cụ Hoàng (phần sau), cụ Phan đọc cho cụ Hoàng (Cố Giám) chép lại. Chữ dấu son trong sách là của cụ Phan. Quyển này chép lại đúng sự thực… Khi cụ mất, con cả cụ là Phan Huynh mang quyển này từ Huế về Nghệ, truyền từ tay người này đến tay người khác, sau đến tay ông Dinh (Thượng thư hưu trí ở cách Đan Nhiễm nhà cụ Phan 3 cây số). Ông Dinh có chép lại làm nhiều bản” (Trích Phan Bội Châu niên biểu, tr. 11-12).
Nhờ đâu mà Giáo sư Đặng Thai Mai biết rõ cụ thể như trên? Theo tôi quả là Giáo sư có “cơ duyên”. Giữa họ Phan ở làng Đan Nhiễm và họ Đặng ở làng Lương Điền vốn đã có quan hệ thông gia, nhưng nếu năm 1951, Giáo sư Đặng vẫn ở Việt Bắc, không về khu IV nhận chức Giám đốc khu Giáo dục ở trường Dự bị đại học đóng tại huyện Thanh Chương thì chưa chắc có cái “duyên” này. Cô em họ Giáo sư Đặng trong câu chuyện có cho Giáo sư biết lúc ông Huynh còn sống đã đem gửi tác phẩm này ở nhà ông Dinh. Giáo sư đã hỏi đường tìm đến nhà ông Dinh ở làng Xuân Liễu để xin nhận. Quyển sách này đã được ông Dinh cất giấu, gìn giữ trong 10 năm. Vài ba năm sau, ông Dinh đột ngột qua đời, nếu không có Giáo sư Đặng đến nhận thì tác phẩm này có thể bị thất lạc hoặc bị tiêu hủy. (Xem thêm bài “Người cất giấu, gìn giữ tác phẩm Phan Bội Châu niên biểu”, tạp chí Văn hóa Nghệ An số 118).
Trùng Quang tâm sử (còn gọi là Hậu Trần dật sử)
Người phát hiện ra tác phẩm này là học giả Đào Duy Anh. Số là vào khoảng năm 1951-1952, cụ Đào được điều động về dạy trường Sư phạm cao cấp của khu IV, bấy giờ sơ tán tại chợ Dùng, chợ Rộ thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Một hôm, cụ đến thư viện nhà trường tìm kiếm một số tư liệu, bỗng cụ Đào phát hiện một cuốn sách viết bằng chữ Hán theo bút pháp tân thư, nhưng không có mục đề tên sách và tên tác giả. Nhưng khi cụ đọc vài trang đầu thì biết ngay là văn phong của Phan Bội Châu, rồi cụ Đào tạm đặt cho tác phẩm này với tiêu đề Hậu Trần dật sử… Hòa bình lập lại ở miền Bắc, cụ Đào Duy Anh về dạy tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nhân có ông Trần Lê Hữu quê ở Kim Liên, huyện Nam Đàn đang làm công việc dịch thuật ở trường, cụ Đào đã hỏi ý kiến ông Hữu, thì ông cho biết rằng sách này ông đã từng đọc hồi còn học chữ Hán ở quê nhà Nam Đàn và khẳng định tác giả là cụ Phan Bội Châu. Thế là cụ Đào đề nghị ông Hữu dịch. Năm 1957, tác phẩm này được nhà xuất bản Văn hóa ấn hành, phổ biến với tên sách là Hậu Trần dật sử. Vài năm sau, căn cứ vào nội dung, nhà nghiên cứu Chương Thâu đề nghị “đính chính” cho nó một tiêu đề khác là Trùng Quang tâm sử, với tên sách này các giới nghiên cứu đều đồng tình.
Hiện nay chưa ai biết đích xác tác phẩm này cụ Phan sáng tác vào thời gian nào? Có nhóm nghiên cứu nói vào khoảng năm 1901-1902, một số khác lại cho rằng vào khoảng năm 1917-1918 (?).
Việt Nam quốc sử bình diễn ca
Tác phẩm này viết bằng chữ Quốc ngữ, trong đó có bút tích của cụ Phan, còn lại là nét chữ của nhiều người khác, cụ Phan đọc cho họ chép. Tính đến nay, nó đã “ngủ yên” trong các tủ sách của các gia đình đến 65 năm (1940-2005). Theo chú thích của Chương Thâu, người phát hiện ra tác phẩm này là cụ Nguyễn Văn Vinh, người xã Kim Liên, huyện Nam Đàn. “Cụ cho biết ở nhà ông Vương Lộc có một bản chép toàn văn tác phẩm Việt Nam quốc sử bình diễn ca, nhưng chúng tôi chưa có điều kiện khai thác. Rất mong được bổ khuyết” (theo chú thích ở tr. 77, Phan Bội Châu toàn tập – t.8). Tác phẩm này được chính cụ Phan dịch sách của mình viết bằng văn xuôi cuốn Việt Nam quốc sử khảo, thành một tác phẩm văn vần gồm trên 4.000 câu song thất lục bát. Từ một chú thích của Chương Thâu năm 1990, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên – Huế, thông qua nhiều nguồn, nhiều phía, mới có điều kiện đứng ra cùng nhà xuất bản Thuận Hóa in toàn văn và phát hành tác phẩm này vào năm 2005.
Phan Bội Châu văn tập. Đây là một tập di cảo viết hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, gồm nhiều thể loại như thơ, phú, bút ký, câu đối điếu, văn tế, các “bài thuốc” chữa bệnh như bệnh ỷ lại, giả dối, tham lợi, hư danh,… bệnh không biết tự lập, không biết hợp quần,… Tập này có 2 loại khổ giấy đã úa vàng (khổ lớn: 34x22cm; khổ nhỏ: 20×15,5cm) gồm 328 trang viết cả 2 mặt. Theo đề mục các bài còn đọc được có 88 đề mục. Có một tác phẩm chiếm gần 100 trang khổ lớn. Theo khảo sát của chúng tôi thì tập khổ giấy lớn đã bị mất nhiều trang ở phần sau. Căn cứ vào nội dung thì tập di cảo này cụ Phan bắt đầu chép từ năm 1926 đến năm 1938. Nếu kể từ sau khi cụ Phan mất cho đến nay thì tập di cảo này đã “ngủ yên” vừa tròn 70 năm (1940-2010). Người phát hiện ra tập di cảo này là một giáo viên cấp 3 dạy Lịch sử, tên là Vương Kính, người ở làng Vân Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hồi cải cách ruộng đất (1955-1956), trong một làng nọ, đội cải cách ra lệnh tịch thu các loại sách vở của đế quốc, phong kiến địa chủ đem ra đốt ở đình làng. Ông Kính được đội cử ra xem xét, phân loại thì thấy trong đống khế ước, trích lục, sách vở chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm,… có tập sách viết chữ “rông” (rond) với tiêu đề là Phan Bội Châu văn tập, ông liền nhanh tay nhặt ra, xin phép đội giữ lại để tham khảo… Kháng chiến chống Mỹ ngày càng ác liệt, ông phải đi sơ tán, sợ thất lạc tập di cảo, ông liền gửi ra cho người anh ở Hà Nội cất giữ hộ… Năm 2005, chính ông Kính là người viết bài giới thiệu tác phẩm Việt Nam quốc sử bình diễn ca, một tác phẩm có trong tập di cảo này. Ông viết: “Giới thiệu Việt Nam quốc sử bình diễn ca lần này, chúng ta hết sức vui mừng và sung sướng khi có trong tay mình một tập bình diễn ca quốc sử trên bốn ngàn câu thơ song thất lục bát của Phan Bội Châu khá đầy đủ và trọn vẹn mà lâu nay lưu lạc thất truyền…”.