Bài thơ Xuân của Thiền sư Mãn Giác

Hà Thúc Minh

Tạp chí Xưa&Nay, số 349+350, tháng 2 năm 2010

Mãn Giác 满觉 là biệt hiệu mà Lý Nhân Tông phong cho Lý Trường (1052 – 1096). Lý Trường còn có tên là Sùng Tín hay Hoài Tín[1]. Thiền sư thuộc thế hệ thứ tám dòng Thiền Vô ngôn thông. Thiền sư Mãn Giác để lại cho đời một bài “kệ”[2], gọi là “thơ” có lẽ đúng hơn:

Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa nở.

Sự đời trôi qua trước mắt,

Tuổi già lại đến trên đầu.

Chớ bảo Xuân tàn hoa rụng hết,

Trước đình Mai nở tối hôm qua.

(Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tòng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai)

春去百花落

春到百花开

事逐眼前过

老从头上来

莫谓春残花落尽

庭前昨夜一支梅[3]

Bài thơ bắt đầu là chữ “Xuân” 春 và kết thúc là chữ “Mai” 梅. Thông thường đã là thơ Xuân thì bao giờ cũng bắt đầu từ Xuân đến chứ có ai lại bắt đầu từ Xuân đi. Nhưng Mãn Giác thì hơi khác, bắt đầu không phải là Xuân đến (xuân đáo) mà lại là Xuân đi (xuân khứ). “Xuân khứ” nghĩa là Xuân đã qua, đã chấm hết, nhưng cái chấm hết lại là “một bông mai” (nhất chi mai) mới nở, có nghĩa là chấm hết bằng cái bắt đầu.

Thiền uyển tập anh cho rằng bài thơ được sáng tác vào ngày 30-11 năm Hội Phong thứ 5 (1095), nghĩa là bài thơ đầu tiên và cũng là cuối cùng trước khi Thiền sư Mãn Giác viên tịch. Chẳng biết Thiền sư Mãn Giác còn có bài thơ bài kệ nào nữa không, nhưng có lẽ lắm lúc chỉ cần một bài cũng đủ rồi. “Nhất chi hoa” (Thượng uyển nhất chi hoa), “nhất phiến nguyệt” (Diêu trì nhất phiến nguyệt), “nhất chi hồng hạnh” (nhất chi hồng hạnh vượt tường lai) và… “nhất chi mai”. Nên nhớ rằng Thiền sư thuộc dòng Vô ngôn thông, nghĩa là “nhất ngôn” cũng chẳng cần, đâu cần cả cành mai làm gì, một bông Mai cũng đủ lắm rồi!

Cuộc đời chưa đầy nửa thế kỷ của Thiền sư nhưng với một bài thơ vào hàng tuyệt tác của thơ Thiền thời Lý Trần cũng đã xứng đáng lưu danh muôn thuở. Chỉ với sáu câu (đúng ra là chỉ với ba chữ: nhất chi mai) đủ để chứng tỏ Thiền sư đã “liễu ngộ” triết lý “vô thường”  cũng như tinh thần “tùy duyên” thượng thừa của Phật giáo.

Thiền sư Nhật Bản Kurakami nhận xét rằng thuyết “vô ngã” là đặc trưng của Phật giáo nhưng thuyết “vô thường” mới là tư tưởng cơ bản của Phật giáo. Đức Phật Thích Ca sau khi giác ngộ, lần đầu tiên thuyết pháp tại vườn Lộc Uyển (Sãnãth) đã đề cập đến thuyết “Tứ diệu đế”, “Bát chánh đạo”, “Duyên khởi” và “Tam pháp ấn”. Ai cũng biết Phật giáo kế thừa rất nhiều ở các giáo phái truyền thống nhưng cái mà các giáo phái khác không có, chỉ Phật giáo mới có, đó là thuyết “Tam pháp ấn” 三法印 (Tri – Laksana)[4]. “Tam pháp ấn” là chuẩn mực không thể thiếu để phân biệt Phật giáo với các giáo phái khác. Cho nên các phái như Vedanta, Nyaya, Jaina… thường ra sức công kích thuyết này. Pháp ấn đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của “tam pháp” đó là “chư hành vô thường” 诸行无常 (Sarva samskara anitya). Đại trí độ luận, Q.22 giải thích: “tất cả pháp hữu vi[5] luôn sinh ra và mất đi gọi là vô thường” (nhất thiết hữu vi pháp niệm niệm sinh diệt giai vô thường 一切有为法念念生灭皆无常). Nói cách khác, thế gian này không có cái gì là vĩnh cửu cả (tuyệt vô thường trụ tính). Thế gian vừa có đó vừa không có đó, vừa tồn tại vừa không tồn tại, Phật giáo gọi là “sát-na vô thường”[6] 杀那无常 và “tương tục vô thường” 相续无常. Quá trình sinh, diệt liên tục trải qua 4 thời kỳ hay còn gọi là “tứ kiếp” 四劫, bao gồm “thành kiếp” (Vivarta kalpa), “trụ kiếp” (Vivarta Stha’yin kalpa), “hoại kiếp” (Samivarta kalpa) và “không kiếp” (Samivarta Stha’yin kalpa). “Hoại – không” hay là “dị – diệt” chẳng có nguyên nhân nào cả, không do đấng tối cao nào tạo ra cả, Vasubandhu đã giải thích kỹ càng điều đó trong Câu xá luận, Q.13. Bản năng sinh tồn và nối dõi nòi giống của con người luôn ngược lại với “hoại – không” hay “dị – diệt”, do đó con người không muốn thấy và cũng không thấy cái “sát-na vô thường” cũng như “tương tục vô thường” mà chỉ thấy và chỉ muốn thấy cái “hữu thường” mà thôi. Có lẽ chẳng sai chút nào khi có ai đó cho rằng sai lầm lớn nhất của con người là không thấy được lẽ “vô thường”. “Vô thường” không chừa ai cả, mọi người ai cũng phải chết, đó là “chúng sinh vô thường”, mọi vật cũng không tránh khỏi bị hủy diệt cho nên gọi là “thế giới vô thường” và cả tư tưởng, ý niệm vô hình, vô tướng cũng đều như vậy, cho nên gọi là “chư niệm vô thường”. “Khổ” (Dukha) cũng từ đấy mà ra. Khổ vì cái cảnh “vô thường” xuân đến, xuân đi, hoa nở, hoa tàn… Nhưng “khổ” cũng vì cái “ngã” bị ngộ nhận, không có cái “tự ngã” nào hết, bởi vì hết thảy mọi thứ trên đời (Pháp) đều dựa vào nhau hợp hợp, tan tan, sinh sinh, diệt diệt. Con người cũng vậy, con người do ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hợp thành. Chẳng phải “tứ đại giai không”, “ngũ uẩn giai không” đó sao? Cho nên “lão tòng đầu thượng lai” cũng là lẽ “vô thường” của cái “vô ngã”. Nhưng nó sẽ là nổi “khổ” của cái “tự ngã” ngộ nhận. “Liễu ngộ” được cái “vô ngã” trong cái “vô thường” thì sẽ đạt được cảnh giới của “Niết bàn tịch tĩnh” 涅盘寂静.

Không ai có thể kéo Xuân đến cũng như không ai có thể đuổi Xuân đi nếu như Xuân chưa đến cũng như chưa đi. Không ai có thể trẻ mãi không già, không bao giờ chỉ có sinh mà không có diệt. “Trường xuân” và “bất diệt” chỉ là lý tưởng chứ không phải hiện thực. “Chinh phục”, “thống trị”, “cải tạo”… là những từ thường thấy ở các khoa học gia chứ không phải ở Phật pháp. Tư duy tuyến tính, tư duy lô-gich của khoa học xem thế giới như là khách thể nhận thức, tách rời khỏi chủ thể nhận thức. Những tưởng đã nhận thức được thế giới, nhưng càng ngày chính các khoa học gia cũng đã nhận ra tính hạn chế của nó. Cái giá phải trả cho cái gọi là “chinh phục”, “thống trị”… thế giới chẳng phải đã được tìm thấy ở những cuộc họp về biến đổi khí hậu toàn cầu ngày một cấp thiết đó sao?

Phật giáo không xem thế giới như là khách thể nhận thức mà xem như chủ thể tự nhận thức. Cho nên thay vì tư duy lô-gic, tư duy tuyến tính của khoa học là “tư duy phi tuyến tính” (Non-linear Thinking), tư duy “trực giác” (intuition). Xuân tàn thì hoa phải rụng hết, đó là tư duy lô-gic, nhưng tư duy “trực giác” thì lại “phát hiện” hoa nở trong cái Xuân tàn. Thiền sư Mãn Giác nhìn thấy mai nở trong lúc Xuân tàn, Hồ Chí Minh lại nhìn thấy mùa Xuân trong mùa Đông:

Nếu không có cảnh Đông tàn,

Làm sao có cảnh huy hoàng mùa Xuân.

Có lẽ cội nguồn họ Hồng Bàng đã làm cho đạo lý “vô thường” của Thiền sư và tinh thần lạc quan của nhà cách mạng gặp nhau ở quá khứ cũng như ở tương lai “thường, lạc, ngã, tĩnh” của dân tộc.

Phật giáo không đặt vấn đề “chinh phục” hay “thống trị” thế giới mà đặt con người trong quan hệ “tùy duyên” với ngoại cảnh. “Tùy duyên” (Yathã-pratyaya) là cảnh giới “đạt đạo” hài hòa tính chủ thể và khách thể của con người trong quan hệ với thế giới bên ngoài chứ không phải là thái độ của kẻ nhu nhược. Cho nên kinh Phật thường có câu “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”随缘不变,不变随缘[7].  Biết đâu “tùy duyên” cũng có thể là thuật ngữ dùng để tham khảo cho những ai đang nặng về “tăng trưởng” mà nhẹ về “giảm thiểu”. Nên nhớ rằng bên này là “tăng trưởng” thì bên kia có khi lại là “giảm thiểu”, giảm thiểu mùa Xuân của đất, trời, giảm thiểu mùa Xuân của con người.

Xuân đến, Xuân đi, hoa nở, hoa rụng là chuyện của đất, trời và cũng là chuyện của con người. Xuân tàn nhưng trước đình hoa vẫn nở. Hoa nở trước đình cũng có nghĩa là hoa nở trong lòng người. Hoa nở hôm qua cũng có nghĩa là nở hôm nay. Một bông mai, chỉ cần một bông mai nở trong lúc Xuân tàn cũng đủ để thể hiện “sát-na vô thường”, “tương tục vô thường” của trời, đất cũng như tinh thần “tùy duyên” đạt đạo của những con người đạt đạo.


[1] Nhà Trần kiêng húy chữ “Sùng” nên đổi lại thành “Hoài Tín”.

[2] “Kệ” 偈 là từ gọi tắt của “kệ đà” 偈陀, “Cà đà”, 伽陀 “Cà tha” 伽他…, Sanskrit gọi là “Gãthã”. Hán ngữ từ điển giải thích “Kệ” là “lời xướng trong kinh Phật” (Phật kinh trung đích xướng từ 佛经中的唱词), được dịch ra tiếng Anh là: Budhist’s chantorhymn. Có hai loại “kệ”: thông kệ và biệt kệ, thông kệ do 32 chương tiết tiếng Phạn hợp thành, biệt kệ thường gồm 4 câu, mỗi câu có 4 hoặc 7 chữ. Thiền uyển tập anh gọi thơ của Thiền sư Mãn Giác là “kệ”, nhưng gọi là “thơ” có lẽ phù hợp hơn.

[3] Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục đặt tên cho bài thơ là Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người). Có lẽ Lê Quý Đôn căn cứ vào ghi chép (Cáo tật thị chúng kệ) trong Thiền uyển tập anh. Đó cũng chỉ là cảm nhận của Lê Quý Đôn chứ không phải của Thiền sư Mãn Giác. Nếu như cho phép tác giả bài viết này được đặt tên thì bài thơ không biết có nên gọi lá “Nhất chi mai” hay không?

[4] Tiếng Anh dịch là Three marks of existence.

[5] “Hữu vi”, Phạn ngữ Samskrta, có nghĩa là cái được tạo ra, là hiện tượng do nhân duyên hòa hợp tạo thành, cho nên cũng là cái dễ sinh ra, mất đi. Trong 75 pháp của Abhidharma chỉ có 3 pháp là vô vi, còn lại đều là hữu vi (Phật học Đại từ điển).

[6] Nhân vương kinh: “Một sát-na có chín trăm lần sinh sinh, diệt diệt” (Nhất sát-na kinh cửu bách sinh diệt).

[7] Tham khảo Đại thừa khởi tín luận.

Bài liên quan

Bài đăng mới