“Chí Linh Bát Cổ” trong lịch sử văn hóa dân tộc

GS. Văn Tạo

Tạp chí Xưa&Nay, số 78, tháng 8 năm 2000

Đất nước Việt Nam ta đa dạng về văn hóa, giàu đẹp về cảnh quan thiên nhiên và di sản lịch sử. Hai nét đặc sắc đó hòa quyện với nhau trong sự phát huy và sáng tạo của con người đã để lại những di tích lịch sử muôn màu muôn vẻ. Có cái có tầm vóc quốc gia như Hạ Long, Phong Nha – Kẻ Bàng, Tháp Chàm Mỹ Sơn… lại có những di tích ở các địa phương từ huyện đến tỉnh thành… cụ thể như: Quảng Nam – Đà Nẵng có Ngũ Hành Sơn, Kiên Giang có Hà Tiên thập vịnh, Hải Dương có Chí Linh Bát Cổ.

Nói về Ngũ Hành Sơn thì mỗi Hành Sơn là một ngọn núi mang hình dáng: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trong mỗi ngọn núi hoặc có hang động hoặc có chùa tháp, hoặc có cảnh quan tươi đẹp hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước.

Còn Hà Tiên thập vịnh lại bao gồm 10 bài thơ của Tao đàn Chiêu Anh Các do Mạc Cửu lập nên, đã chọn 10 cảnh đẹp và mỗi cảnh có 1 bài thơ ngâm vịnh về cảnh đó (gọi là Hà Tiên thập vịnh). Cụ thể như: 1. Bình sơn điệp thúy (Bình sơn chồng chất sắc xanh). 2. Lộc trĩ thôn cư (thôn xóm ở Lộc trĩ). 3. Sơn tự thần chung (tiếng chuông buổi sáng ở Sơn tự). 4. Thạch động thôn vân (động đá nuốt mây). 5. Châu nham lạc bộ (chim cò sa xuống Châu nham). 6. Kim dữ lan đào (hòn Kim dữ chắn sóng). 7. Đông hồ ấn nguyệt (Đông hồ in trăng). 8. Nam phố trừng ba (Nam phố sóng trong). 9. Lư Khê nhàn điếu (Lư Khê nhàn câu). 10. Giang thành dạ cổ (tiếng trống ban đêm ở Giang thành) (Đại Nam nhất thống chí, tập V, KHXH, Hà Nội 1971, tr.12,24).

Mỗi cụm di tích đó trước hết là bắt đầu địa danh bằng những con số như Ngũ, Bát, Thập. Nếu để những con số riêng lẻ thì chẳng có ý nghĩa sâu xa gì. Nhưng ông cha ta đã thổi hồn vào những con số, tạo nên những danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Trong những địa danh đó trước hết phải kể đến yếu tố địa – thiên nhiên, địa – lịch sử, cụ thể như Cổ độ, Cổ trạch, Cổ viên, Cổ bích, Cổ tháp, Cổ động, Cổ thành. Các yếu tố này ghi lại cảnh quan thiên nhiên và lịch sử. Nhưng cái đậm nét nhất của mỗi di tích phải là yếu tố địa – kinh tế, địa – chính trị, địa – văn hóa, địa – quân sự.

Cụ thể như Nhạn Loan cổ độ thì yếu tố Nhạn Loan quan trọng nhất. Trong Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, phần Dư địa chí – Nhân vật chí (Nxb Sử học, 1960, tr. 106), nhà sử học Phan Huy Chú đã ghi: Về phía đông nam núi Phao Sơn, bên dưới núi nổi lên một bãi cát nom như hình hai con nhạn, dài 10 trượng, cao vài mươi thước, trông gần thì như bạc, trông xa thì như nước. Người Trung Quốc nói về kiểu đất chỗ này có câu: “Bạch Nhạn vô mao, Sơn tận anh hào” nghĩa là: “bao giờ chim nhạn trắng không mọc lông thì không sinh ra người anh hào nào nữa”. Nay những cỏ mọc ở bãi nhạn trắng đó mười phần chỉ còn độ ba, bốn phần. Bãi hình chim nhạn gần với chùa Sùng Nghiêm, thuộc xã Nam Giản. Trong sách nói về kiểu đất của người Trung Quốc, cho Cổ Bi làm chi giữa, Thăng Long làm chi tả, Nam Giản làm chi hữu (Nam Giản là địa danh trên đất Chí Linh gần với Nhạn Loan cổ độ). Từ đây, chúng ta có thể suy ngẫm là di tích lịch sử này không chỉ có ý nghĩa trong phạm vi Hải Dương mà cảnh quan địa lí, lịch sử còn liên quan đến Cổ Bi và Thăng Long, thủ đô của cả đất nước.

Thượng Tể cổ trạch: là nơi dạy học của quốc phụ Trần Quốc Chẩn. Yếu tố lịch sử này có tầm quan trọng lớn đối với di tích, cụ thể là:

Như Đại Nam nhất thống chí (Sđd, tập III, HN 1971, tr.401) đã ghi: “Đền Huệ Vũ Vương nhà Trần: Trần Quốc Chẩn, ở xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tên thần là Quốc Điền, tôn thất nhà Trần đời Trần Minh Tông làm Nhập nội hành khiển, sau bị gian thần Trần Khắc Chung dèm mà chết, người làng lập đền ngay chỗ nhà cũ để thờ”. Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn chép: “Trần Công nhà gần sông Cái, tương truyền ông có thuật lạ, cứ 3 ngày 1 lần vào triều, tối còn ở nhà, sáng hôm sau đã ở kinh sư rồi, ông dùng thuyền nhỏ chèo mau, cho nên 1 đêm có thể đến kinh sư được. Nay cầu đảo vẫn linh ứng. Tương truyền có năm đại hạn, người xã Kiệt Đặc bàn với người xã Quảng Tân ở tổng khác cùng nhau cầu đảo, người xã Quảng Tân lấy cớ rằng ở cách sông nên không nhận lời, sau đó cầu đảo được mưa thì chỉ mưa ở bờ phía bắc sông Cái, còn một dải về phía nam sông vẫn nắng, người ta đều sợ về linh dị”. Như vậy, chúng ta có thể liên hệ giữa Trần Quốc Chẩn với những danh nhân kiên trung, chính trực của Hải Dương như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm và phải kể đến sử gia Lê Nghĩa quê ở Thanh Hà là một sử gia trung thực được Lê Quý Đôn ghi: “Bấy giờ – thời Hồng Đức – kén chọn sử quan rất cẩn trọng, như sử quan Lê Nghĩa chép thằng giữ ngay, có khí tiết như cổ nhân”. Để phát huy tác dụng của di tích lịch sử Thượng Tể cổ trạch, chúng ta có thể giới thiệu với khách du lịch các di tích nổi tiếng trên.

Dược lĩnh cổ viên: là khu vườn trồng thuốc Nam của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Như Đại Nam nhất thống chí, tập III (Sđd) có ghi: vườn cổ Dược Sơn ở xã Dược Sơn, huyện Chí Linh là chỗ nhà cũ của Trần Hưng Đạo vương, nay nền cũ vẫn còn (trang 390). Với địa danh này chúng ta có thể liên hệ rộng ra giữa dược và y mà quảng bá di tích lịch sử của các thánh y thuộc Hải Dương như: Tuệ Tĩnh ở Cẩm Giàng, nhà châm cứu Nguyễn Đại Năng ở Kinh Môn, Hải Thượng Lãn Ông ở Đường Hào, Đào Công Chính ở Vĩnh Bảo, xưa cũng thuộc về Hải Dương. Với các di tích trên chúng ta có thể tự hào về truyền thống y dược của Hải Dương đã có tầm cao trong lịch sử văn hóa dân tộc, được ngành y dược trong cả nước tôn vinh.

Tiều Ẩn cổ bích: nay ở xã Văn An là nơi ở ẩn của quan đại thần nhà giáo Chu Văn An. Như Đại Nam nhất thống chí, tập III (tr.390) đã ghi: Nhà cổ Tiều Ẩn ở núi Phượng Hoàng, xã Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, là chỗ nhà cũ của Chu Văn Trinh hiệu là Tiều Ẩn nay dựng đền thờ. Ở đây, chúng ta phải ghi thắng cảnh của núi Phượng Hoàng mà trong Lịch triều Hiến chương loại chí (Sđd , tr.105) đã viết:  Núi Phượng Hoàng ở Kiệt Đặc, ngọn núi hơi ngả xuống, hai bên sườn núi mở rộng ra hình như chim phượng múa. Thời nhà Trần có làm ra cung Tử cực, điện Lưu Quang mà Băng Hồ tiên sinh Trần Nguyên Đán đã có bài thơ vịnh rất nổi tiếng. Phát huy tác dụng của di tích lịch sử này chúng ta phải nêu gương kiên trung tiết nghĩa của thầy giáo Chu Văn An, người đã dâng thất trảm sớ lên vua Trần Dụ Tông xin chém 7 nịnh thần, rồi xin về ở ẩn dạy học, đã đào tạo được nhiều danh nhân cho đất nước. Ngày nay ngành giáo dục của cả nước tôn vinh nhà giáo Chu Văn An, cũng cổ vũ Hải Dương phát huy tác dụng này trong tỉnh và ra cả nước.

Tinh Phi cổ Tháp: cũng thuộc xã Văn An là di tích về bà chúa sao xa Nguyễn Thị Duệ. Đại Nam nhất thống chí, tập III, tr.437 đã viết: “Nguyễn Thị Duệ người huyện Chí Linh, thông minh hơn người, học rộng văn hay; năm mới hơn 10 tuổi, cải trang làm con trai để đi học khi lớn ứng thi khoa thi Hội đời Mạc, đỗ tiến sĩ. Vua Mạc thấy dung mạo giống con gái, hỏi ra mới biết, thấy làm lạ. Đến khi nhà Mạc mất, ẩn ở dân gian, vua Lê nghe tiếng, cho triệu vào trong cung để dạy cung nữ, cho hiệu là Nghi ái quan, dùng văn chương hầu hạ không rời tả hữu; mỗi khi vua hỏi việc gì, thị liền dùng sự tích xưa nay chép trong kinh sử để đáp, vua Lê khen ngợi, cấp cho các thứ thuế ở bản xã làm Ngụ lộc. Đến năm 70 tuổi, xin về làng dựng am Đàm Hoa để ở. Nay xã Kiệt Đặc, Kiệt Hoa thờ làm thần, vẫn còn bi kí”. Với di tích lịch sử này chúng ta có thể liên hệ với các di tích về các nữ danh nhân của tỉnh Hải Dương như bà: Bùi Thị Hý ở Gia Lộc, người trí thức, người nghệ sĩ gốm sứ tài ba, đã có công phát triển kĩ nghệ gốm sứ Chu Đậu mà nay đang có tiếng vang trong cả nước và thế giới. Đồng thời cũng có thể liên hệ với sự tích nữ danh nhân nổi tiếng thế kỉ XVII – XVIII ở huyện Tứ Kỳ là bà Bổi Lạng, được chúa Trịnh Cương tin dùng và được nhà trí thức đương thời Nguyễn Quý Đức ghi lại văn bia.

Trạng Nguyên cổ đường: xưa là xã Linh Khê, huyện Chí Linh, nay thuộc xã Thanh Quang huyện, Nam Sách là giảng đường cũ của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Khu di tích lịch sử này mới được Nhà nước và tỉnh Hải Dương đầu tư tôn tạo, xứng đáng với tên tuổi của lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Có người nói, trong số các trạng nguyên ở Việt Nam người được gọi là lưỡng quốc Trạng nguyên tức trạng nguyên của cả nước Việt Nam và Trung Quốc thì đứng đầu là Mạc Đĩnh Chi. Trong lịch sử quan hệ ngoại giao hiện nay, Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng quan tâm đặc biệt đến tài năng của Mạc Đĩnh Chi trong việc giao tiếp với triều đình Trung Quốc và với các sứ thần Triều Tiên tại Bắc Kinh. Văn thơ của Mạc Đĩnh Chi đã biểu hiện rõ tài năng ứng đối của trí thức Việt Nam trên trường quốc tế.

Phao Sơn cổ thành: nay thuộc thôn Phao Sơn, xã Cổ Thành đã được lịch sử ghi lại như sau: “Thành cổ Phao Sơn ở huyện Chí Linh đắp đời Minh Vĩnh – Lạc, đến nhà Mạc đắp rộng thêm, nền cũ vẫn còn. Thành Phao Sơn bao bọc núi làm thành, rộng 500 trượng, đời trước giặc cướp hay chiếm cứ, quan quân nhiều nơi đánh dẹp, nên chỗ đất ấy thành đất chiến trường, phía nam thành là trị sở ti Thừa Chính đời Lê có trường thi Hương” (Đại Nam nhất thống chí, tập III, Sđd, tr.390). Ở di tích lịch sử này yếu tố địa – quân sự rất quan trọng, nó ghi lại cả những chiến tích chống ngoại xâm thời Trần có tác động đến nền độc lập của cả nước. Nó gắn với di tích Kiếp bạc – Côn Sơn thành 1 quần thể di tích lịch sử gồm cả địa – quân sự, địa – nhân văn.

Những danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử kể trên đều được in đậm dấu ấn vào văn thơ, ca nhạc Việt Nam, cụ thể như trong bài văn chầu về Đức Thánh Trần Hưng ĐạoLục đầu Giang:

Thuyền ai qua lục đầu giang.

Nghe trong tiếng nước, tiếng đàn quân reo

Nam Tào (dược sơn), Bắc Đẩu cheo leo

Nghìn trùng núi biếc, nghìn đèo mây trôi

Treo tranh Yên Tử mà khơi,

Khí thiêng hồn nước sáng ngời muôn thu…

Nghe lời chầu văn đầy khí thiêng sông núi này tôi nhớ tới “Chí Linh Bát Cổ” đã từng gắn làm một với “Yên Tử – Quỳnh Lâm”.

Năm 1973, giáo sư sử học Trần Văn Giàu, GS. Nguyễn Hồng Phong cùng với tôi đã được UBND huyện Chí Linh mời về thăm Chí Linh Bát Cổ, thăm Yên Tử – Quỳnh Lâm, và nghiên cứu  về Đệ tứ chiến khu gồm cả Chí Linh và Đông Triều. GS. Trần Văn Giàu đã nói lên vui mừng ca ngợi địa danh di tích lịch sử và quân sự này:

“Chí Linh Bát cổ – Yên Tử – Quỳnh Lâm” xứng đáng được tôn vinh và phát huy tác dụng cùng với thành tích của Đệ tứ chiến khu giành lại chính quyền ở địa phương trước Cách mạng tháng Tám, góp phần vào khởi nghĩa thành công Cách mạng tháng Tám trong cả nước.

Bài liên quan

Bài đăng mới