Đi tìm xuất xứ của bài thơ “Nam quốc sơn hà”

Viên Như

Tạp chí Xưa&Nay, số 359, tháng 7 năm 2010

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Sông núi nước Nam vua Nam ở,

Rành rành ghi rõ tại sách trời.

Nếu như quân giặc sang xâm phạm,

Chúng nó thấy ngay thất bại thôi.

Mộc bản và bản dập Mộc bản khắc bài thơ thần Nam quốc sơn hà

Bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” được xem là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Việt Nam. Từ lâu bài thơ này luôn gắn với tên tuổi của Lý Thường Kiệt (1019-1105), xuất phát từ cuộc kháng chiến chống Tống, kết thúc bằng trận chiến trên sông Như Nguyệt, được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: “Mùa xuân, tháng 3, nhà Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó… sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1 nghìn người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta. Người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào dọc theo sông để cố thủ. Một đêm, quân sĩ chợt nghe trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

….thủ bại hư[1].

Việt điện u linh: “Đến thời vua Lý Nhân Tông, quân Tống sang lấn, tiến vào trong cõi. Vua sai Thái úy Lý Thường Kiệt lập trại ở ven sông để chống giữ. Một đêm, quân sĩ nghe trong đền có tiếng thần ngâm thơ:

Nam quốc sơn hà

…thủ bại hư”.

Rồi quả nhiên quân Tống bị thua, phải rút về nước”[2].

Từ đó, người ta ngộ nhận bài thơ ấy là của Lý Thường Kiệt. Sự việc phổ biến đến nỗi đã có nhiều người lên tiếng về điều này như GS Hà Văn Tấn (“Lịch sử – Sự thật và Sử học”, Xưa&Nay, tháng 3-1994), GS. NGND Bùi Duy Tân (phongdiep.net).

Ngoài ra, bài thơ này còn xuất hiện ở nhiều văn bản khác với những khác biệt nhất định, đáng kể nhất là Lĩnh Nam chích quái: “Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm 30 tháng 10, trời tối đen, mưa to, gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Hoàng thiên định phận tại thiên thư.

Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm,

Bạch nhẫn phiên thành phá trúc dư’.

Quân Tống nghe thơ, xéo đạp vào nhau mà chạy tan… Lê Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân… sai dân phụng thờ… nay vẫn còn là phúc thần”[3].

Tác phẩm này cho ta biết rằng bài thơ này không phải được đọc trên sông Như Nguyệt thời Lý Thường Kiệt, mà nó cũng đã được đọc trên con sông này, nhưng từ thời Lê Hoàn và cũng không nói rõ ai là tác giả. Như vậy về xuất xứ của bài thơ thì đến nay vẫn chưa thống nhất được. Theo thời gian cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã ghi lại có trên 30 bài Nam quốc sơn hà được viết thành văn bản, ngoài ra còn có các bản được khắc ở các di tích, đền thờ, giữa các bản có sự khác nhau, nhưng tựu trung hầu hết đều chọn bản trong Đại Việt sử ký toàn thư làm chuẩn.

Như đã nói trên, sách Đại Việt sử ký toàn thư, Việt điện u linhLĩnh Nam chích quái không khẳng định ai là tác giả bài thơ này. Tất nhiên phải có ai đó sáng tác bài thơ, nhưng vì không biết cụ thể ai là tác giả đích thực nên dựa vào nội dung quan trọng và lớn lao của bài thơ, lại được đọc lên vào đêm tối trong một ngôi đền nên gọi thơ thần. Tuy nói là thơ của thần, nhưng rõ ràng phải có ai đó là tác giả, chính vì vậy có nhiều người đã để tâm nghiên cứu và đề xuất một con người cụ thể là tác giả. Bài viết của Nguyễn Thị Oanh (Văn nghệ, số 12. 21-3-2009) cho rằng tác giả có thể là đại sư Khuông Việt, hay như Lê Mạnh Thát (Lịch sử Phật Giáo Việt Nam, t.2. Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh – 2001) cho rằng Nam quốc sơn hà của Pháp Thuận. Các giả thuyết này chủ yếu dựa vào mối quan hệ của các thiền sư nói trên với các vua thời ấy nên chưa có tính thuyết phục cao.

Trong bài viết này, cùng suy nghĩ phải có ai đó trong số những trí thức dân tộc thời ấy là tác giả của bài thơ, nên tôi cũng đề xuất ở đây một con người cụ thể, người mà tôi cho rằng có nhiều yếu tố để có thể là tác giả bài thơ Nam quốc sơn hà. Như đã nêu trên, có hai truyền thuyết về sự ra đời của bài thơ thần:

– Theo Lĩnh Nam chích quái là thời Lê Hoàn (981).

Đại Việt sử ký toàn thư là trận Như Nguyệt (1076).

Về sách Lĩnh Nam chích quái

Tác giả Lĩnh Nam chích quái đến nay vẫn chỉ là giả thuyết, chưa chắc chắn; Trần Thế Pháp là ai, thân thế và sự nghiệp ra sao, vẫn là một dấu hỏi. Nội dung Lĩnh Nam chích quái thì ít, chủ yếu lấy từ sách khác, không có tính sáng tạo cao. Do lấy từ sách khác như nghĩa của từ “chích” trong tên sách mang lại, nên có người cho rằng truyện về xuất xứ bài Nam quốc sơn hà cũng chép từ sách khác, có nghĩa là trước đó đã có sách viết về câu chuyện đó rồi, nên cho là đáng tin cậy, từ đó cho rằng việc Ngô Sĩ Liên viết rằng Nam quốc sơn hà được viết và đọc vào thời Lý là ngoa truyền.

Tuy nhiên, câu chuyện về bài thơ thần trong Lĩnh Nam chích quái ngoài khác biệt so với Đại Việt sử ký toàn thư như thời đại Tiền Lê thay vì thời Lý, trên sông Như Nguyệt thay vì Bạch Đằng, thời gian cũng khác. Lĩnh Nam chích quái viết: “Canh ba đêm 30 tháng 10, trời tối đen, mưa to, gió lớn đùng đùng”. Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Mùa xuân, tháng 2”. Ở đây có điều làm cho ta phải đặt dấu hỏi. Như ta biết cuối tháng 10 Âm lịch, ở miền Bắc nước ta đang là giữa mùa đông, thời tiết mưa gió, rét như cắt da, lại thêm tiết Nguyên đán gần kề, tâm lý binh lính sao khỏi chạnh lòng, sao nhà Tống lại điều binh sang xâm lăng nước ta vào lúc này? Thất bại của quân Nam Hán năm 938 là một minh chứng. Về ngôn từ của bài thơ trong  Lĩnh Nam chích quái cũng khác, mà theo tôi thực chất chỉ là sửa lại bài này từ Đại Việt sử ký toàn thư, do đó có những giới hạn.

So sánh với bài thơ thần trong Đại Việt sử ký toàn thư, bài trong Lĩnh Nam chích quái có những giới hạn như sau:

– Câu 2 viết: “Hoàng thiên…thiên thư”.

Đã là sách trời thì do trời viết hay nói khác, nội hàm ngữ nghĩa của từ “thiên thư” là đã có trời rồi, vậy cần gì phải “hoàng thiên”. Thêm vào đó, “thiên thư” nghĩa đen là sách trời, nhưng ta phải hiểu là “sách công lý”, có nghĩa là điều đó xưa nay ai cũng biết. Do đó thêm “hoàng thiên” chỉ làm yếu đi, nếu không nói là thừa so với cách dùng “tiệt nhiên” của Đại Việt sử ký toàn thư.

– Câu 3, Lĩnh Nam chích quái đã cụ thể giặc là “Bắc lỗ” thay vì “nghịch lỗ”. Làm như thế có ý chỉ thẳng giặc là ai, nhưng lại mất đi tính phổ quát của một tuyên ngôn, bởi vì viết như thế thì bài này chỉ có giá trị với giặc phương Bắc thôi, còn giặc các phương khác thì sao?

– Còn câu cuối thì “gươm bén chẻ như chẻ tre” so với câu “Nhữ đẳng…thủ bại hư” thì lời lẽ hơi thô. Bởi vì chuyện thất bại của quân xâm lược đâu chỉ là qua việc chém giết, mà nó còn thất bại trên nhiều mặt khác nữa, do đó nói nếu giặc phương Bắc sang thì sẽ dùng gươm bén mà đánh cho tan tác như chẻ tre thì rõ ràng đây chỉ là ngôn từ của chốn riêng tư, chứ nếu đem làm thông điệp của một quốc gia là điều bất cập.

Từ những nhận định như thế, ta thấy rõ bài thơ thần trong Lĩnh Nam chích quái chỉ là sửa lại từ bài thơ trong Đại Việt sử ký toàn thư, do đó tính khả tín của bài “Nam quốc sơn hà” trong Lĩnh Nam chích quái là không cao. Vậy tại sao tác giả Lĩnh Nam chích quái lại viết “Nam quốc sơn hà” thuộc về thời Tiền Lê? Tác giả “chích” từ sách nào? Hay tác giả tự sáng tác? Câu trả lời là: Tác giả rất có thể đã “chích” câu chuyện này từ bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, rồi sửa lại thời, từ đời Lý thành thời Tiền Lê. Lý do cho việc sửa này chắc là lấy lòng nhà Hậu Lê. Bởi vì chính nghĩa của Lê Lợi là con cháu nhà họ Lê. Như vậy, tác phẩm này có thể ra đời sau khi Lê Lợi lên ngôi chứ không phải thời Trần mạt như có người đề nghị.

Về sách Đại Việt sử ký toàn thư

Nội dung Đại Việt sử ký toàn thư là một bộ sử hết sức công phu, có tính bác học, điều này cho thấy đây là một công trình mang tính tập thể mà Ngô Sĩ Liên là chủ biên. Một công trình được vua sai làm thì đâu thể không cẩn trọng. Trong tác phẩm này đã rất nhiều lần (29 lần) đề cập tới Lê Văn Hưu, tác giả bộ Đại Việt sử ký, với dòng chữ “Lê Văn Hưu viết…”, điều này chứng tỏ Đại Việt sử ký toàn thư phần lớn dựa vào Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu. Như thế có nghĩa là bộ Đại Việt sử ký toàn thư là một tác phẩm được viết nên bởi công sức của rất nhiều người có kinh nghiệm và kiến thức uyên bác, với phương pháp làm việc hết sức nghiêm túc dưới sự tài trợ của triều đình qua hai triều đại Trần – Lê thì lẽ nào thông tin trong bộ sách này lại viết tùy tiện. Đồng thời với ngần ấy thời gian và con người, lẽ nào không phát hiện cuốn sách có nội dung mà Lĩnh Nam chích quái ghi lại.

Từ những so sánh, phân tích trên, với tính khả tín của bộ Đại Việt sử ký toàn thư, tôi cho rằng bài thơ thần đã được viết và đọc vào thời Lý Thường Kiệt phá quân Tống trên sông Như Nguyệt năm 1077.


[1] Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn hóa – Thông tin, C1, tr. 428.

[2] Việt điện u linh (1329) – Lý Tế Xuyên. Bản dịch. Nxb. Văn học, H. 1972, tr. 70-71.

[3] Lĩnh Nam chích quái – Vũ Quỳnh – Kiều Phú. Bản dịch, Nxb. Văn hóa, H. 1990, tr. 83-84. Về ngày tháng trong Lĩnh Nam chích quái có nhiều sai khác giữa các bản, ngày 2-10, 23-10; Việt sử diễn âm ngày 15-12, ở đây chỉ luận theo văn bản đã trích.

Bài liên quan

Bài đăng mới