Từ trước đến nay, chúng ta thường nhất trí một quan niệm rằng, điện Kính Thiên thời Hậu Lê (1428-1788), điện Càn Nguyên – Thiên An thời Lý – Trần (thế kỷ XI-XIV), được xây dựng trên Nùng Sơn – Long Đỗ, luôn là chính điện của thành Thăng Long, nơi các vua thiết triều và họp bàn với quan quân những việc quốc gia đại sự. Trong các tấm ảnh chụp bên trong thành Hà Nội năm 1884 của bác sĩ Hocquard, vẫn còn hình ảnh điện Kính Thiên, nơi sau này đã bị người Pháp phá để làm trại pháo thủ, chỉ còn lưu lại đôi rồng đá trên bậc thềm.

Ngay đợt xây dựng đầu tiên sau khi dời đô về Đại La, tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã cho dựng điện Càn Nguyên làm “chỗ coi chầu”[1]. Tuy nhiên, thực tế lịch sử tám thế kỷ sau ngày định đô có đúng với hoạch định của vị vua đầu triều nhà Lý, người có công khai sinh ra kinh thành Thăng Long, hay không? Và vấn đề này, thậm chí, cũng được đặt ra với cả thời Lê Sơ (1428-1527), một vương triều cường thịnh của quốc gia Đại Việt, và có tiếng là quy phạm trong các lễ nghi cung đình?
Sau chiến thắng Đông Quan năm 1428, Bình Định Vương Lê Lợi dời dinh Bồ Đề vào thành Thăng Long. Ngay trong năm này, vua Lê Thái Tổ cho xây dựng lại hệ thống cung điện, bao gồm điện Vạn Thọ cùng hai điện Tả, Hữu, điện Kính Thiên và điện Cần Chính. Tuy nhiên, trọng tâm xây dựng dường như chưa được đặt vào điện Kính Thiên khi cả Toàn thư và Đại Việt thông sử (của Lê Quý Đôn) đều không xếp điện này lên đầu tiên theo thứ tự ưu tiên, mà thay vào đó là cụm công trình điện Vạn Thọ và Tả – Hữu hai điện[2]. Chỉ đến thế kỷ XIX, các sử quan triều Nguyễn mới xếp việc “sửa điện Kính Thiên” lên trên cùng, rồi sau đó mới đến điện Vạn Thọ, điện Cần Chính và hai điện Tả, Hữu. Rõ ràng là sách sử thời Nguyễn đã có chút dị bản, bị ảnh hưởng bởi thực tiễn thành Thăng Long – Đông Kinh thế kỷ XV-XVIII và nhãn quan sử gia thế kỷ XIX. Ngay việc Cương mục chép là “sửa” điện Kính Thiên, chứ không phải là xây cất, đã là khá xa rời thực tế lịch sử thành Đông Đô cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XV. Chúng ta cũng biết rằng vào cuối thời Trần, sau những biến cố chiến tranh (do quân Mông Nguyên và Chămpa), kinh thành Thăng Long bị tàn phá, thậm chí toàn bộ cung điện đã bị thiêu hủy, vua Trần Nghệ Tông phải tiến hành xây dựng lại cung thất, nhưng “chỉ cốt mộc mạc”. Đến năm 1397, Hồ Quý Ly cho dỡ điện Thiên An (cùng điện Thụy Chương) lấy gạch ngói, gỗ chở vào Thanh Hóa xây thành Tây Đô[3]. Như vậy, cuối thế kỷ XIV, điện Thiên An đã bị dỡ bỏ, do đó, dù có quy mô và chức năng như thế nào đi chăng nữa thì điện Thiên An – Kính Thiên hẳn phải được xây dựng lại vào đầu triều Lê, đúng như Toàn thư đã biên chép.
Tuy nhiên, cho đến trước năm 1465, Kính Thiên vẫn chưa phải là chính điện và là nơi mà các vua Lê thiết triều. Bằng chứng là từ sau năm 1428 trở đi, không một sự kiện chính trị, ngoại giao hay giáo dục khoa cử nào được sử chép gắn liền với điện Kính Thiên, chứ chưa muốn nói là không hề thấy tên điện này trong biên niên sử nhà Lê (sách Toàn thư) dưới các triều Thái Tổ, Thái Tông và Nhân Tông. Trong khi Lê Quý Đôn và quốc sử quán triều Nguyễn vào thế kỷ XVIII-XIX cho rằng năm 1428, vua Lê Thái Tổ lên ngôi ở điện Kính Thiên[4], thậm chí cả 8 tháng trước khi xây điện này (?), thì Toàn thư chỉ chép chung chung là “vua lên ngôi ở Đông Kinh”; còn lễ lên ngôi của Lê Thánh Tông hơn 30 năm sau đó thì được sách chép diễn ra ở một điện khác là điện Tường Quang[5]. Và cũng trong khi sự kiện triều Lê lập đàn cúng năm 1434 được Cương mục cho là ở điện Kính Thiên, thì Toàn thư chép rõ ràng là điện Cần Chính[6].
Ngược lại với sự vắng mặt của điện Kính Thiên, các sự kiện diễn ra tại Cấm thành Thăng Long nửa đầu thế kỷ XV lại cho thấy vị thế quan trọng của hai điện Càn Đức và Hội Anh. Năm 1434, điện Càn/Kiền Đức là nơi bày cỗ lễ phương Bắc của sứ nhà Minh sang điếu tế Lê Thái Tổ. Cũng cho đến thời điểm này, vì thần chủ của Thái Tổ vẫn còn đặt trong Cấm thành (ở điện Càn Đức), vua Lê Thái Tông mỗi khi thiết triều ở điện Hội Anh chỉ đứng tựa cột bên đông của điện; phải sau tháng Chạp năm 1434, khi triều Lê hoàn tất việc rước Thái Tổ và Quốc Thái mẫu lên Thái miếu, vua Thái Tông mới chính thức ngồi ngai coi chầu tại điện này[7]. Năm 1437, cũng dưới triều Lê Thái Tông, trong nỗ lực thiết lập nhã nhạc và triều nghi mới theo điển chế Trung Hoa, Hành khiển Nguyễn Trãi phụng tâu rằng: “… Quy chế của nhà Minh, thì khi vua ngồi ở cửa Phụng Thiên phải có sập vàng (kim đài), ở điện Phụng Thiên thì có ngai báu (bảo tạo), nay chỉ có một điện Hội Anh, lại chỉ có sập vàng, nếu di chuyển thì sợ không yên, đặt cả hai thứ cũng không được, thế là lễ nghi gì?” Rồi ngay sau đó (tháng 11-1437), trong lễ Kế Thiên khánh tiết, từ Thái miếu trở về cung, vua Thái Tông mặc áo cổn, mũ miện ngự ở điện Hội Anh, các quan mặc triều phục, còn Lỗ bộ ty bày nghi trượng ở Đan Trì (thời Lý – Trần là Long Trì, tức Sân Rồng)[8]. Như vậy, càng có thể thấy, cho đến năm 1437, các vua Lê thường chỉ ngự ở điện Hội Anh để đãi triều hay tiến hành các nghi lễ cung đình; vua không có bảo tạo, mà sập vàng, thay vì được đặt cố định, lại di chuyển theo chỗ ngự của vua, và như thế thì khác xa so với quy chế Trung Quốc.
Năm 1465, vua Lê Thánh Tông (1460-1497), một lần nữa, cho xây dựng điện Kính Thiên, cùng với điện Cẩn Đức (chính là điện Càn Đức?), đến khi khánh thành hai điện thì đại xá thiên hạ. Hai năm sau (1467), vua lại cho xây lan can bằng đá chạm rồng ở trước điện Kính Thiên[9]. Cũng chỉ từ đây trở đi, điện Kính Thiên mới chính thức là nơi thiết triều của vua Lê, nơi tổ chức thi Đình mà nhà vua là người ra bài văn sách (các năm 1466, 1469, 1475, 1481, 1487, 1490, 1494, 1499, 1502, 1511), và là nơi tiến hành đại lễ bang giao với nhà Minh (năm 1488).
Sự phục hồi vai trò, chức năng của điện Kính Thiên giữa thập niên 60 của thế kỷ XV, không gì khác, chính là kết quả của công cuộc cải cách triều nghi và kiến thiết thành Thăng Long theo mô hình Trung Hoa – Đông Á mà Lê Thánh Tông tiến hành trong nửa sau thế kỷ này. Trong công cuộc cải cách đó, với 38 năm tại vị, Lê Thánh Tông đã ban bố hàng loạt các quy định triều nghi, như màu sắc, kiểu cách quan phục văn võ (các năm 1471, 1477, 1486, 1488), nghi thức đối với quan lại đi công cán trở về (năm 1465), với tướng sĩ quân đội khi vào chầu (1472), quy cách, tác phong của vương hầu, quan lại khi vào chầu (1486), cách thức chắp tay (1489), đi đứng (1490), rồi quy định về thế thứ, ban bệ của các quan văn võ khi tham triều (1493). Đặc biệt, năm 1485, Hoàng đế đã ban hành một loạt quy định về nghi lễ tiến triều, đối với từ vương hầu, đại quan cho đến lại viên, thậm chí cả tiểu đồng. Sách Toàn thư chép: “[Lệnh định ngày 24-4 nhuận], Đại thần và các quan văn võ từ nay khi vào chầu, đến ngoài cửa Đại Hưng [cửa Nam Hoàng thành – TG] phải xuống kiệu hoặc ngựa. Nếu là công, hầu, bá, phò mã thì được hai tiểu đồng theo hầu, quan nhất phẩm được một người. Khi vào đến ngoài cầu Ngoạn Thiềm thì dừng lại. Ai vi phạm thì quan giữ cửa ngăn lại, tâu hặc để giao xét hỏi”; Đến ngày 13-7, lại ra sắc chỉ: “Quan các vệ, sở 5 phủ khi tan chầu đều phải về nha môn của mình để bàn bạc việc quan, không được như trước đây tụ họp bàn luận ở ngoài rèm trong kho Loan Giá; Khi các quan vào chầu và khi còn ở trong triều đường, lại viên các nha môn đi theo bản quan đến bên ngoài các cửa Đông Trường An [cửa ngách ngoài Cấm thành] và Nam Huân [cửa Đại Hưng?] thôi, không được như trước đây vào bừa cả cửa Chu Tước [cửa Nam Cấm thành]”; Và cũng ngay ngày 3 tháng 8 cùng năm, triều Lê định nghi thức vào chầu cho các quan, theo đó, “Kể từ nay, vào ngày phiên chầu, hồi trống thứ nhất, quan hộ vệ theo thứ tự tiến vào Đan Trì, hồi trống thứ hai, các quan theo thứ tự tiến vào Đan Trì, không được đường đột tranh đi trước, chen lấn lộn xộn. Sau khi trống đã đánh ba hồi mà các quan ở ngoài cửa Chu Tước và sau khi chuông đã đánh quá 50 tiếng rồi mà còn ở bên tả, bên hữu cửa Đoan Môn, thì quan coi cửa ngăn lại hết, ty xá nhân vệ Cẩm y hặc tâu lên để trừng trị”[10].
Đối với phức hợp thành Thăng Long, có thể nói, phải đến thời Lê Sơ, trong sử sách mới xuất hiện hai khái niệm “Hoàng thành” (năm 1434, dưới triều Thái Tông) và “Cung thành” (năm 1463, dưới triều Thánh Tông)[11]. Đặc biệt, phải đến thời Quang Thuận – Hồng Đức, những nghi lễ triều đình và sự chia cắt nội ngoại nghiêm cẩn giữa các vòng thành, mà tâm điểm là điện Kính Thiên và hai lớp cửa Nam Cấm thành (Đoan Môn và Chu Tước) mới được quy định đồng bộ. Dưới niên hiệu Quang Thuận (1460-1469), Lê Thánh Tông cho xây dựng lại Đoan Môn, để đến năm 1472, tên gọi “Đoan Môn” lần đầu tiên xuất hiện trong chính sử[12]. Cũng bắt đầu từ Bản đồ Hồng Đức, Thị Triều điện lần đầu tiên hiện diện trong kết cấu thành Thăng Long, gắn liền với các hoạt động triều nghi của nhà Lê tại trung tâm Cấm thành, hoàn thiện một hệ thống tổng thể Kính Thiên – Đan Trì – Thị Triều – Đoan Môn – Chu Tước. Đặc biệt, năm 1490, vua Thánh Tông cho mở rộng Phượng thành (Cấm thành) ra bên ngoài Trường đấu võ (tức cựu Giảng Võ – Khán Sơn), theo quy mô Hoàng thành thời Lý – Trần; và mở rộng Hoàng thành về phía tây nam, ra bên ngoài khu Diễn Vũ (Giảng Võ – Bảo/Ngọc Khánh), theo đó không chỉ cạnh bắc và tây Hoàng thành là trùng với La Thành, mà cả cạnh tây nam của Hoàng thành đã trùng với một phần đường đê Đại La[13].
Nói tóm lại, trong khoảng gần bốn thập kỷ, từ năm 1428 đến năm 1465, các vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Nhân Tông, cả Lê Nghi Dân, và hoàng đế Lê Thánh Tông (trong 5 năm đầu triều), rất có thể đã không thiết triều ở điện Kính Thiên, mà thay vào đó là điện Hội Anh. Các điện Càn Đức, Hội Anh ở trong thành Đông Kinh thời Lê là ở vị trí nào, điện Kính Thiên trong khoảng thời gian đó có vai trò, chức năng gì, đó không chỉ là câu hỏi mà các sử quan thời Nguyễn đã băn khoăn chưa khảo được[14], mà còn là nghi vấn đối với ngành sử học, khảo cổ học của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta đã chắc chắn được một điều rằng, cả trước và sau thế kỷ XV, điện Càn Nguyên – Thiên An – Kính Thiên đã không dưới bốn lần, mỗi lần thậm chí kéo dài nhiều chục năm, bị mất đi vai trò chính điện của Thăng Long. Chưa kể đến sự thất thế, hoang tàn đến “tang thương” của Hoàng thành – Cấm thành và cung điện triều Lê thế kỷ XVII-XVIII, khi mọi hoạt động của quốc gia được dồn vào Phủ chúa Trịnh, và điện Kính Thiên chỉ còn là nơi thờ Trời, Đất cùng vua Lê Thái Tổ[15]. Lịch sử thành Thăng Long thời Lý – Trần cho thấy đã có hai tiền lệ như vậy, đó là: Lần thứ nhất, kéo dài 12 năm, từ năm 1017 đến 1029, các vua Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông coi chầu ở Đông điện Tập Hiền (từ 1017 đến 1020) và Tây điện Giảng Võ (từ 1020 đến 1029). Chỉ đến đợt xây dựng các năm 1029-1030, trong đó có làm lại và mở rộng quy mô điện Càn Nguyên trên nền cũ đã san phẳng, đồng thời đổi tên thành Thiên An[16], thì từ đây trở đi, các vua Lý – Trần mới trở lại thiết triều tại điện này; Tuy nhiên, vẫn có lần thứ hai, dưới thời Trần, cũng do điện Thiên An bị sét đánh (các năm 1256, 1263), mọi hoạt động triều nhật, họp bàn của Thượng hoàng và vua Trần với các đại quan, phụ lão, và kể cả hoạt động đối ngoại của nhà Trần với sứ Nguyên (năm 1261) được chuyển đến Bắc Cung – Thánh Từ và điện Diên Hiền/Diên Hồng, từ năm 1259 đến năm 1284[17].
Sang thời Lê Sơ, phải từ năm 1465 trở đi, điện Kính Thiên mới được trả lại đúng vị thế của nó trong phức hợp thành Thăng Long. Có thể coi Lê Thánh Tông là người tái hiện và sáng tạo hoạch định mà vua Lý Thái Tổ đã vạch ra từ 455 năm trước đó. Lịch sử một thiên niên kỷ Thăng Long – Đông Kinh – Hà Nội, “nơi lắng hồn núi sông ngàn năm”, đã được kế thừa và tiếp nối như thế.
[1] Còn được chép là “Triều Nguyên” hoặc “Kiền Nguyên”. Xem Việt sử lược, bản dịch, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, tr.70-71; Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, T.I, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr.241; Ngô Thì Sỹ: Đại Việt sử ký tiền biên, bản dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr.194-195; Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản dịch, T.I, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.269.
[2] Toàn thư, bản dịch, T.II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr.298; Lê Quý Đôn: Đại Việt thông sử, bản dịch, trong Lê Quý Đôn toàn tập, T.III, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr.80.
[3] Ngô Sỹ Liên (biên tu), Nguyễn Huy Oánh (san bổ): Quốc sử toản yếu, bản dịch, Nxb. Thuận Hóa & Trung tâm Ngôn ngữ Văn hóa Đông Tây, Huế – Hà Nội, 2004, tr.187; Cương mục, bản dịch, T.I, Sđd, tr.679-680.
[4] Đại Việt thông sử, bản dịch, Sđd, tr.73; Cương mục, bản dịch, T.I, Sđd, tr.814.
[5] Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.293, 389.
[6] Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.314; Cương mục, bản dịch, T.I, Sđd, tr.849.
[7] Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.322, 324.
[8] Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.345,346.
[9] Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.404, 405, 406 & 426; Cương mục, bản dịch, T.I, Sđd, tr.977, 978, 980. Sách Cương mục chỉ chép sự kiện dựng điện Cẩn Đức, mà không có sự kiện dựng điện Kính Thiên năm 1465 này.
[10] Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.494-495.
[11] Xem thêm Nguyễn Thừa Hỷ: Hoàng thành Thăng Long có hay không?, Xưa& Nay, số 215, 2004, tr.21-23; Về phức hợp thành Thăng Long, Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (345), 2005, tr.16-22.
[12] Vũ Phương Đề (1755): Công dư tiệp ký, bản dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2001, tr.19; Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.479.
[13] Toàn thư, bản dịch, T.II, Sđd, tr.507-508; Cương mục, bản dịch, T.I, Sđd, tr.1035-1037; 11 bản đồ Thăng Long thời Lê thế kỷ XV-XVIII; Phương Đình Nguyễn Văn Siêu: Đại Việt địa dư toàn biên, bản dịch, Viện Sử học và Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1997, tr.177-178.
[14] Xem lời chua của Quốc sử quán triều Nguyễn, trong Cương mục, bản dịch, T.I, Sđd, tr.862-863, 977-978.
[15] Xem Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án: Tang thương ngẫu lục, bản dịch, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1960, tr.16-18.
[16] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.74, 78-79; Toàn thư, bản dịch, T.I, Sđd, tr.245-246, 254; Tiền biên, bản dịch, Sđd, tr.202-203, 213. Đôi khi còn được gọi là “Đại An”, theo Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.197; Quốc sử toản yếu, bản dịch, Sđd, tr.91.
[17] Toàn thư, bản dịch, T.I, Sđd, tr.27, 31-33; Tiền biên, bản dịch, Sđd, tr.342, 347-349, 363.