Đoan Môn, còn được gọi là Ngũ Môn, Ngũ Lâu Môn, hoặc Lầu Ngũ Môn, vốn được biết đến là lớp cửa Nam trong cùng của Cấm thành Thăng Long, mà vị trí được cố định từ thời Lý, cho dù diện mạo ngày nay của nó là có từ thời Nguyễn. Đầu triều Nguyễn, vua Gia Long cho phá bỏ một số cửa của Hoàng thành (cửa Đông Hoa, Đại Hưng) và Cấm thành (cửa Tam Môn, hay còn gọi Triều Nguyên, Chu Tước), Đoan Môn vẫn được giữ lại, trên có biển đá khắc hai chữ “Đoan Môn”, và “đấy là di tích từ thời Lý”[1]. Do đó, Đoan Môn còn được coi là một trong những vật chuẩn để xác định vị trí, phạm vi của trung tâm thành Thăng Long xưa. Và như vậy, có thể hơi kỳ cục khi chúng ta lại đặt vấn đề về thời điểm ra đời của “Đoan Môn”!
Tư liệu sớm nhất có khắc ghi hai chữ “Đoan Môn” là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh chùa Long Đọi Sơn (Duy Tiên, Hà Nam), tác giả Nguyễn Công Bật, niên đại Tân Sửu, Thiên Phù Duệ Vũ năm thứ 2 (1121). Văn bia cho biết sân rồng (Long Trì) trước Đoan Môn thế kỷ XII đã là nơi vua Lý Nhân Tông tổ chức hội đèn Quảng Chiếu: “Dựng đài cao Quảng Chiếu; hướng sân trước Đoan Môn” (Kiến Quảng Chiếu chi đăng đài; hướng Đoan Môn chi đình thượng)[2]. Tuy nhiên, khảo sát các bộ chính sử của Việt Nam thời Trung đại như Đại Việt sử lược (thế kỷ XIV), Đại Việt sử ký toàn thư (thế kỷ XVII), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (thế kỷ XIX), hay những tác phẩm thông sử của Nguyễn Huy Oánh (Quốc sử toản yếu, thế kỷ XVIII), Ngô Thì Sỹ (Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử tiêu án, thế kỷ XVIII), hoặc của Đặng Xuân Bảng (Việt sử cương mục tiết yếu, thế kỷ XIX)[3], tên gọi chuẩn xác “Đoan Môn” hoàn toàn chưa hiện diện trong biên niên sự kiện thời Lý – Trần – Hồ (thế kỷ XI-XIV – đầu thế kỷ XV). Chúng ta chỉ thấy một gác Đoan Minh, thậm chí là Thụy Minh, trong sự kiện duy nhất năm 1053; một cửa Dương Minh trong sự kiện năm 1281[4]. Mà những tên, được cho là cách gọi khác của Đoan Môn, đó cũng chỉ có thể tìm thấy trong các sử sách thế kỷ XVII trở về sau, còn bộ sử có niên đại sớm hơn là Đại Việt sử lược lại hoàn toàn không chép đến. Trong sách sử Trung Quốc thời Nguyên thì ghi chép về thành Thăng Long hết sức sơ sài và lộn xộn, và những mô tả về một “cửa Minh Dương” (tức Dương Minh môn), với hai cửa nách tả, hữu Nhật Tân và Vân Hội, thì chưa đủ sáng rõ để kết luận đó chính là Đoan Môn của Cấm thành Thăng Long[5], đặc biệt khi ta biết từ năm 1203 trở đi, một hạng mục bên tả quần thể cung điện phía tây Cấm thành có tên là điện Dương Minh?[6].

Phải sang đến thời Lê sơ, tên gọi chính xác “Đoan Môn” mới xuất hiện trong chính sử Đại Việt. Đó là sự kiện năm 1472, khi vua Lê Thánh Tông (1460-1497) định triều nghi hộ vệ, theo đó: “Các tước sĩ hàng ngày vào chầu phải đứng sắp hàng trước ở hai bên đông tây ngoài cửa Đoan Môn; những ngày sóc vọng phải đến đợi ở ngoài cửa Văn Minh, Sùng Vũ, sau ba hồi trống thì tiến vào Đan Trì dàn bày nghi trượng, ban thứ chỉnh tề. Người nào cố ý vi phạm, làm mất hàng ngũ, sau ba hồi trống vẫn chưa chỉnh tề thì các vệ Cẩm Y và Kim Ngô bắt giữ xin trị tội”[7]. Tuy nhiên, qua Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (thế kỷ XVIII) ta biết, vào niên hiệu Quang Thuận (1460-1469), Lê Thánh Tông đã cho xây lại Đoan Môn cùng hai cửa Nam và Đông của Hoàng thành. Sách chép: “Bấy giờ các cửa Đoan Môn, Đại Hưng, Đông Hoa ở trong thành xây từ đời Lý, lâu ngày đã đổ nát. Vua Thánh Tông sai chữa lại. Ông [chỉ Thượng thư Vũ Hữu] đo chiều cao và chiều rộng của các cửa và tính số gạch đem trình vua. Vua sai thợ y số làm gạch và đem xây cửa thì vừa đủ, không sai một tấc. Vua thưởng cho ông 100 mẫu ruộng để biểu dương”[8].
Việc triều Lê sơ cho xây lại Đoan Môn trên nền cũ từ thời Lý – Trần đã đổ nát không chỉ được thư tịch giữa thế kỷ XVIII ghi chép, mà những kết quả nghiên cứu khảo cổ học cuối thập kỷ 1990 cũng xác nhận điều này. Cuộc khai quật di tích Đoan Môn năm 1999, cho thấy toàn bộ Đoan Môn thời Trần đã bị san lấp một lớp đất sét dày trung bình 0,2m; sau đó, ở trên có một lớp đất trung bình dày 0,7m phủ lên; và cuối cùng là một Đoan Môn thời Hậu Lê được xây dựng, sửa chữa nhiều lần nhưng mặt nền gạch về cơ bản là mặt bằng chuẩn được bắt đầu từ thời Lê sơ, và tiếp tục duy trì trong suốt thời Lê trung hưng và tiếp tục cho đến tận thời Nguyễn. Đặc biệt, các nhà khảo cổ học nhận định, chỉ đến thời Lê thì sự mở rộng Đoan Môn mới thật rõ ràng, nền Đoan Môn lát lan rộng về phía đông, và hẳn có một cấu trúc quy mô, phức tạp[9].
Có thể nói, việc vua Lê Thánh Tông cho tái xây dựng Đoan Môn là đã rõ, và không phải ngẫu nhiên, cũng như đây không phải là đợt xây sửa đơn lẻ. Trong 38 năm trị vì đất nước của mình, Lê Thánh Tông đã có nhiều đóng góp lớn mang tính cải cách đối với nền hành chính, chính trị, pháp luật, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục – khoa cử của quốc gia Đại Việt, trong đó có cả vấn đề triều nghi và kiến thiết thành Thăng Long. Không chỉ cho xây dựng, mở mang Đoan Môn khang trang, to đẹp và là nền móng trong suốt thời Lê – Nguyễn trở về sau, Lê Thánh Tông cũng là vị hoàng đế đầu tiên, theo ghi chép trong chính sử, đưa ra quy định tiến triều dành cho vương thân, quan lại gắn liền với Đoan Môn cùng các cửa Nam của Cấm thành và Hoàng thành, lần lượt là Chu Tước, Đông – Tây Trường An và Đại Hưng.
Những xây dựng, sửa chữa nội vi Cấm thành và Hoàng thành Thăng Long thời Lê Thánh Tông thể hiện hai nguyên tắc: thứ nhất, đảm bảo sự phân cấp/phân biệt nội ngoại nghiêm cẩn giữa các vòng thành, đặc biệt cẩn mật là Hoàng thành và nhất là không gian Cấm; thứ hai, củng cố vị thế quan trọng của các lớp cửa Nam Cấm thành và Hoàng thành, trong đó có Đoan Môn. Từ nửa sau thế kỷ XV trở đi, mọi hoạt động xuất nhập thành Cấm, đặc biệt của quan quân, được quy về một mối.
Cũng dưới thời Lý – Trần, ta thấy kinh thành Thăng Long trải qua một số đợt xây sửa lớn, trong đó phải kể đến hai đợt xây dựng căn bản là vào các năm 1010 và 1029-1030. Năm 1010, ngay sau khi định đô, Lý Công Uẩn cho xây điện Càn Nguyên (Triều Nguyên) làm chỗ coi chầu, bên trái dựng điện Tập Hiền, bên phải dựng điện Giảng Vũ, bên trái mở cửa Phi Long, bên phải mở cửa Đan Phượng, chính nam dựng điện Cao Minh (Cao Điện); đều có thềm gọi là Long Trì, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía; sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long An, Long Thụy, bên trái xây điện Quang Nhật, bên phải xây điện Nguyệt Minh, đằng sau xây cung Thúy Hoa; Bốn phía thành (Hoàng thành) mở 4 cửa: phía đông là Tường Phù; phía tây là Quảng Phúc; phía nam là Đại Hưng; phía bắc là Diệu Đức. Trong thành xây Tinh Lâu Ngũ Phượng (lầu Ngũ Phượng Tinh)[10]. Năm 1029, vua Lý Thái Tông cho dựng lại điện Thiên An trên nền cũ điện Càn Nguyên, bên trái xây điện Tuyên Đức, bên phải xây điện Diên Phúc, thềm trước điện gọi là Long Trì; phía đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía tây đặt điện Quảng Vũ, đối nhau tả hữu hai bên Long Trì là Chung lâu (lầu chuông) để nghe việc oan khuất của dân, bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để tụ họp các quan và sáu quân túc vệ; Đằng trước đặt điện Phụng Thiên, ở trên xây lầu Chính Dương làm nơi xem giờ; phía sau làm xây điện Trường Xuân, ở trên xây gác Long Đồ (Long Các); Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành[11]. Hai đợt xây dựng này đã được sơ đồ hóa trong các nghiên cứu gần đây, đặc biệt rõ nhất là sơ đồ của Giáo sư Phan Huy Lê, công bố năm 2008[12]. Qua ghi chép thư tịch và mô phỏng sơ đồ, ta thấy không hề có sự xuất hiện của Đoan Môn về phía nam Long Trì, mà thay vào đó là điện Cao Minh (năm 1010) và điện Phụng Thiên cùng lầu Chính Dương (năm 1029). Hay nói cách khác, trong các thế kỷ XI-XIV, có vẻ như Đoan Môn, nếu có, cũng chưa thực sự hiện diện trong một kết cấu tổng thể cùng với điện Càn Nguyên – Thiên An và Long Trì?
Hơn thế nữa, trong công trình địa lý lịch sử Hà Nội, biên soạn vào nửa sau thế kỷ XIX, Dương Bá Cung đã cho biết rằng: “Lầu Ngũ Môn: Ở Vọng Cung, chính giữa có đề hai chữ “Đoan Môn”, đó là lầu Ngũ Phượng Tinh của triều Lý. Bên ngoài là lầu Tam Môn, thể chế cũng tương tự. (Năm Sùng Hưng [Đại Bảo] thứ 5 [1053] có rồng vàng xuất hiện ở điện Đoan Minh. Đầu đời Quang Thuận cũng gọi là cửa Đoan Minh, về sau mới gọi là Đoan Môn)”[13]. Qua khảo cứu của Dương Bá Cung, ta thấy hai điểm quan trọng: thứ nhất, tên gọi “Đoan Môn” là có từ thời Lê Sơ, cụ thể là vào niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) triều Lê Thánh Tông, đúng như nghi vấn của chúng tôi ở bên trên; và thứ hai, “Đoan Môn” thời Lý chính là một cái lầu xem sao, hay lầu Ngũ Phượng Tinh, mà Tinh Lâu này ta đã biết là được xây dựng ngay từ năm 1010, trong đợt kiến thiết Thăng Long buổi đầu định đô của vua Lý Thái Tổ. Các bộ chính sử hầu hết đều có chép việc xây công trình này, Đại Việt sử lược gọi là “lầu Ngũ Phượng Tinh”; Toàn thư chép là “Tinh Lâu Ngũ Phượng”; Tiền biên chép “lầu Ngũ Phượng”; còn với Cương mục thì không thấy có công trình này trong quần thể cung điện năm 1010[14]. Cũng phải nói thêm rằng, Hà Nội địa dư là tài liệu cung cấp cho chúng ta khá nhiều thông tin quan trọng mà không thấy có trong các bộ địa lý lịch sử khác. Như việc Lê Thánh Tông dời Quán Chân Vũ ra ngoài Cung thành năm 1474; việc Chu Tước chính là tên gọi khác của Tam Môn của Cấm thành thời Hậu Lê; hay việc các vua Lê, Nguyễn nhận sắc phong của thiên triều tại Thăng Long, mà chỉ qua ghi chép của Dương Bá Cung, ta mới đoán định được cửa Chu Tước thời Nguyễn là cửa Đông Nam thành Hà Nội[15]. Và như vậy thì ở lớp văn hóa Lý – Trần, phía dưới của Đoan Môn thời Hậu Lê cũng có một công trình kiến trúc ở đúng vị trí đó, nhưng mang một chức năng khác hẳn?
Nói tóm lại, theo chính sử thì ta thấy tên “Đoan Môn” chỉ xuất hiện từ thời Lê sơ, khoảng cuối niên hiệu Quang Thuận, trở đi. Và cho đến thời điểm hiện tại, ta cũng chỉ có thể chắc chắn về vai trò và chức năng của Đoan Môn từ triều Lê Thánh Tông trở về sau. Còn công trình thời Lý – Trần ở vị trí đó được gọi là gì, có công năng ra sao, thì vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ đáp án.
Tuy nghi vấn vậy, nhưng chúng ta không thể phủ nhận được vai trò vật chuẩn của Đoan Môn để xác định vị trí, phạm vi của Cấm thành, cũng như không thể phủ nhận sự tồn tại của trục Kính Thiên – Long/Đan Trì – Đoan Môn của trung tâm thành Thăng Long thế kỷ XI-XVIII (mà như có học giả đến gần đây vẫn còn phủ định)[16]. Cho dù bị mất vai trò chính điện trong thời gian nhất định, điện Càn Nguyên – Thiên An – Kính Thiên vẫn tọa lạc trên đỉnh núi Nùng từ thế kỷ XI và đến nay vẫn còn vết tích; cho dù chức năng có thay đổi như thế nào chăng nữa, thư tịch và các chứng tích khảo cổ đều khẳng định Đoan Môn vẫn cố định vị trí trong suốt một thiên niên kỷ. Khảo cổ học Đoan Môn cho thấy rõ trục trung tâm của thành Thăng Long xưa trong suốt thời Lý – Trần – Lê; tuy nhiên, ý kiến gần đây của một số chuyên gia Nhật Bản, cho rằng vết tích đường viền hoa chanh mang đặc trưng thời Trần phía bắc Đoan Môn có thể là di tích một đoạn tường, chứ không phải là đường đi tiến thẳng về điện Thiên An[17], cũng rất đáng lưu tâm, đặc biệt khi ta còn đang băn khoăn về cái gọi là “Đoan Môn thời Lý – Trần”. Và như thế, mọi kết luận vẫn còn đang nằm ở phía trước, chờ đợi một đợt khai quật mở rộng và những khám phá của các nhà sử học, khảo cổ học trong tương lai.
[1] Hà Nội sơn xuyên phong vực, và Lê Chất: Bắc Thành địa dư chí lục, bản dịch, trong Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Văn Nguyên (cb.), Địa chí Thăng Long – Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2007, tr.183, 479; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, bản dịch, Tập III, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971, tr.165-166.
[2] Nguyễn Công Bật, Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi, bản đánh máy, phiên âm và dịch nghĩa, trong Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần, Tập I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr.390, 397, 404.
[3] Việt sử lược, bản dịch của Trần Quốc Vượng, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960; Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Tập I-II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993; Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản dịch, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007; Ngô Sỹ Liên (biên tu), Nguyễn Huy Oánh (san bổ), Quốc sử toản yếu, bản dịch, Nxb. Thuận Hóa & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Huế – Hà Nội, 2004; Ngô Thì Sỹ, Đại Việt sử ký tiền biên, bản dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997; Ngô Thời Sĩ: Việt sử tiêu án, bản dịch, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2001; Đặng Xuân Bảng, Việt sử cương mục tiết yếu, bản dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000.
[4] Toàn thư, bản dịch, Tập I, Sđd, tr.269; Tập II, Sđd, tr.47; Tiền biên, bản dịch, Sđd, tr.230.
[5] Thiên Nam hành ký (1289), Nguyên sử, dẫn theo Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán (1975): Hà Nội nghìn xưa, Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2004, tr.244-245; Phạm Hân (1990),Tìm lại dấu vết thành Thăng Long, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tr.87.
[6] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.165-166.
[7] Toàn thư, bản dịch, Tập II, Sđd, tr.460.
[8] Vũ Phương Đề (1755), Công dư tiệp ký, bản dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr.19.
[9] Tống Trung Tín và các tác giả: Khai quật địa điểm Đoan Môn (Hà Nội) năm 1999, Khảo cổ học, số 3, 2000, tr.28, 30.
[10] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.70-71; Toàn thư, bản dịch, Tập I, Sđd, tr.241.
[11] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.78-79; Toàn thư, bản dịch, Tập I, Sđd, tr.254.
[12] Phan Huy Lê, Vị trí và phạm vi của Cấm thành Thăng Long qua các thời kỳ lịch sử, Tham luận tại Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ III: Việt Nam Hội nhập và Phát triển, Hà Nội, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008, sơ đồ 1, 2.
[13] Dương Bá Cung, Hà Nội địa dư, bản dịch, trong Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Văn Nguyên (cb.), Địa chí Thăng Long – Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm, Sđd, tr.51.
[14] Việt sử lược, bản dịch, Sđd, tr.70-71; Toàn thư, bản dịch, Tập I, Sđd, tr.241; Tiền biên, bản dịch, Sđd, tr.194-195 ; Cương mục, bản dịch, Tập I, Sđd, tr.269-270.
[15] Dương Bá Cung, Hà Nội địa dư, bản dịch, Sđd, tr.52, 78.
[16] Bùi Thiết, Đối thoại Thăng Long Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2009, tr.115-187, 218-220.
[17] Dẫn theo Phan Huy Lê: “Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội Di sản văn hoá dân tộc và Giá trị có ý nghĩa toàn cầu”, trong Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học 1000 năm Vương triều Lý và Kinh đô Thăng Long, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2009, tr. 137.