Hai bài hịch chống Pháp

Tôn Thất Thọ (Sưu tầm)

Tạp chí Xưa&Nay, số 351, tháng 3 năm 2010

Tháng 2-1859, được tin thành Gia Định bị Pháp tấn công, Tự Đức truyền toàn quốc Bắc Nam phải luyện tập biền binh, chờ ngày đánh giặc, đồng thời cử Thống đốc quân vụ đại thần Tôn Thất Hiệp (còn được ghi là Tôn Thất Cáp) lúc bấy giờ đang là Thượng thư Bộ Hộ đem quân vào Gia Định để ngăn chặn đường tiến quân của giặc. Nhưng quân của Tôn Thất Hiệp vào đến Biên Hòa thì quân Pháp đã chiếm được thành và đang ra sức tàn phá. Sau khi lựa chọn địa thế để xây đồn Chí Hòa, cơ sở của đại đồn Chí Hòa về sau, Tôn Thất Hiệp đã ban bố lời kêu gọi nhân dân Gia Định nổi dậy chống Pháp.

Nguyên văn lời kêu gọi được trích dịch từ cuốn Document pour servir à l’histoire de Saigon của Jean Boutchot:

“Lũ giặc Tây đã kéo đến gây rối loạn ở Gia Định, làm nghịch lại những luật lệ về nhập nội ở xứ này. Như loài hổ dữ, chúng đã tàn phá thành phố và đã thuê người đến khuân kho tàng của chúng ta đi. Bọn cướp này trước đã bị đuổi khỏi Quảng Châu (Trung Hoa) và sau lại bị thất trận ở Đà Nẵng, đã kéo vào đây như đàn chuột bị mắc bẫy đi tìm một chỗ nương thân. Chúng vào đây bằng 10 chiếc tàu và trên 2.000 quân.

Chúng gồm hai giống người cả thảy.

Một số người Công giáo ở xứ này đứng về phía chúng và giúp đỡ chúng, tuy nhiên, trong lúc này, chưa có gì rõ ràng là đã theo chúng hoàn toàn.

Tất cả các quan phải hội quân để diệt giặc. Bằng bất cứ cái gì mình có, mọi người phải cố gắng cầm lấy và tiêu diệt bọn chúng càng nhiều càng tốt.

Ai bắt được hay giết được một tên giặc sẽ được thưởng 10 đồng bạc và được lấy những đồ mà tên ấy mang theo.

Dân chúng trong sáu tỉnh Nam kỳ!

Những ai còn một chút lòng trung hãy đứng dậy để giết giặc.

Những người này sẽ được xem là những bầy tôi trung thành xứng đáng phong thưởng.

Còn những người Công giáo theo giặc Tây sẽ bị trừng trị theo luật định.

Ngày 3 tháng 2 năm Kỷ Vị (1859)[1]”.

Hưởng ứng lời kêu gọi đó, tại Gia Định, đã có hàng ngàn người hăng hái tham gia lực lượng khởi nghĩa đánh Pháp. Trong một thời gian dài, lực lượng nghĩa quân đã bao vây các đồn bót của quân Pháp và nhiều lần tấn công vào đồn giặc, nhưng một phần vì hỏa lực của quân Pháp mạnh, mặt khác  do tin tức đã bị một số người theo Pháp thông báo trước cho chúng nên những trận đánh đó đã không thể thành công.

Tranh vẽ Pháp tấn công thành Gia Định

Tháng 8-1860, tướng Nguyễn Tri Phương được cử vào Nam, thay tướng Tôn Thất Hiệp. Sau khi đã củng cố việc phòng thủ ở đồn lũy Chí Hòa, ông sai Đốc học tỉnh Định Tường là Mạc Như Đông thảo lời hịch gởi đi khắp nơi để động viên tinh thần dân chúng, kêu gọi đồng bào – nhất là giáo dân và thương nhân ngoại kiều – hãy đề cao cảnh giác và đoàn kết một lòng để đánh lại đội quân xâm lược:

Trị nước lấy an dân làm trước,

Chẳng đặng đừng nên thấy việc dùng binh;

Ra quân tua thệ chúng lấy đầu,

Có như vậy mới đồng lòng thảo tặc.

Muốn tỏ hai đàng phải trái,

Ngõ tường mấy tiếng khuyên răn;

Nhà nước ta:

Cột đá an trồng;

Âu vàng vững đặt.

Mười sáu đạo mở mang điện Võ,

Cõi Nam minh biến bặt tăm kình;

Hai trăm năm đồ sộ vạc Châu,

Dòng Đông Phố chằm thanh tiếng nhạn.

Nề nết phong lưu tự trước;

Được nhuần ân trạch đã lâu.

Cớ chi một góc Tây di!

Khác lòng trâu ngựa;

Quen những mấy năm Đông Việt.

Móng dạ sài lang.

Vịnh Trà Sơn nhớ nẻo thông thương,

Tàu đa sách thẳng đường buồm về bến cũ;

Cửa Cần Hải chia đàng tấn thực,

Thuyền khí cơ tuôn khói lọt sông trong.

Quỷ trắng đâu vùng vẫy dưới trời,

Dân đen xảy bùn bôi trên đất.

Ánh sáng nghiệp mấy tòa kim cốc,

Đống tro tàn vì một mũi xung tiêu;

Lũ phấn chi mấy mặt xuân phong,

Mùi tanh khét há chung hơi dị loại?

Ruổi trên bộ thì đạt lũy đầu Mai Sơn tự,

Lại đóng rải nơi Hiển Trung, Khải Tường, Kiểng Phước.

Chùa miễu trăm năm linh tích,

Dấu khói hương lạnh ngắt như không;

Khuẩy dưới sông thì gieo neo nơi khúc Hữu Bình đồn,

Lại xuôi ngược Vũng Gù, Bến Lức, Rạch Ông,

Gần xa các nẻo thương hồ.

Ghe buôn bán dật xiêu còn mấy.

Thói hung bạo khắp thần dân đều giận;

Dạ tham ô tuy săng cỏ cũng hờn.

Lẽ trời đâu giúp đứa hung cường;

Phép nước chẳng dung loài tàn tặc.

Ta nay:

Vâng lời minh dụ:

Lãnh chức Nguyên nhung,

Cờ tiết mao khâm mạng mấy thu,

Sáu tỉnh quân dân quen mặt cũ

Ấn tổng quản trách thành hai lượt,

Chín trùng trù hoạch lắm mưu sâu.

Đem oai linh mà dẹp lũ cuồng di,

Dám chầy việc võ.

Ra đức cả vỗ người quy thuận,

Trước rạch lời văn.

Đất Nam kỳ từ thuở trung hưng.

Dân Gia Định cũng dòng nghĩa khí.

Bốn bảy Nam Dương phò vạc Hán,

Hội rồng mây đua chen gót truy tùy.

Năm ba Đông thổ, chống lèo Châu,

Cơn mưa tuyết chẳng trừ đàng chinh địch.

Thơ son khoán sắt, dấu cũ rành rành;

Họ cả nhà sang, cây cao vọi vọi.

Đã chắc là mấy người trung liệt,

Dạ sắt vàng bao quản bước chông gai;

Song còn thương những kẻ hôn ngu,

Thay cân phủ khá ngại phiền miệng lưỡi.

Nào những Gia Tô các xóm,

Dấu tích xưa quê vức, vốn người Châu;

Nào là Chệt, Khách mấy bang

Trú ngụ đó cửa nhà nơi đất Hán.

Trước sợ phố phường tan nát,

Giả dạng quan thông;

Xưa lầm phù thuốc trầm mê,

Quên đàng hiếu thuận.

Sao chẳng thấy truyện ngụy Khôi năm trước,

Mưu mô ấy mà gan dạ ấy,

Mà biên tru còn để đó làm gương;

Chẳng xem đồ Dương tặc bấy lâu,

Của nhà ngươi cùng vợ con ngươi,

Lòng tham dục biết bao đầy túi.

Chi bằng:

Theo đường chính đạo;

Thú trước hiên môn.

Đức Gia Tô đà khác lòng xưa.

Biết chuyện thiên đàng là dối thế;

Phường Chệt, Khách đành theo đất cũ,

Coi người dị vức chớ nên thân.

Đất phong lưu chỉ nỡ để lầm than,

Dẹp xú loại an nơi cương ngữ;

Người trung nghĩa đã đành lòng hăm hở,

Dâng nước trong mà rửa đám quen sơn.

Ai có công triều cũng không quên,

Tranh lân các phấn sơn thêm rực rỡ;

Người ở phải trời dành cho phước,

Nhà Ô Y lan ngọc cũng sum vầy.

Nếu bằng:

Quen thói chấp nê;

Cứ đường mọi giặc.

Bóng dương hé, giá sương bền được mấy,

Chắc sau nhờ chi đứa gian hung,

Lửa Côn phừng đá ngọc nát như không,

Hay trước liệu khỏi điều hậu hối:

Hịch văn tống đến, truyền khắp gần xa.

Mấy lời tạc dạ, cặn kẽ ghi lòng[2].


[1] Theo Documents pour servir à l’histoire de Saigon, Jean Bouchot, Portail, Saigon, 1904.

[2] Theo Thông loại khóa trình (Miscellanées),số 2 (6-1889), Trương Vĩnh Ký sưu tầm.

Bài liên quan

Bài đăng mới