Giáo sư Hoàng Xuân Hãn sinh ngày 7 tháng Giêng năm Mậu Thân, tức 08-3-1908, nhưng trong giấy căn cước của làng lại khai nhầm ra 03-3-1909. Ông người ở Kẻ Trổ (Bình Lỗ), xã Nhân Thọ, tổng Yên Hồ, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, nay là xã Đức Nhân, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, ông học chữ Hán và quốc ngữ trong gia đình, rồi vào trường Quốc học Vinh học liền trong 8 năm (1918-1926), trừ một năm phải chuyển ra Thanh Hóa (1921-1922). Đậu đầu Thành chung xong, ông ra Hà Nội học trung học, rồi theo thiên hướng sang học chuyên toán ở Lycée Albert Sarraut, sau hai năm thi đỗ Tú tài Tây và được sang Pháp học tiếp. Tại Pháp, ông lần lượt thi đỗ vào nhiều trường khoa học: Normale supérieure d’Ulm, École Polytechnique, École des Ponts et Chaussées, Licence de Sciences mathématiques (Sorbone). Trường nào ông học cũng xuất sắc. Ra trường, ông giật luôn đến mấy mảng bằng: Cử nhân khoa học, Kỹ sư cầu cống và Thạc sĩ toán học. Không phải ông muốn chơi trội. Thế hệ “du học” các ông, nhưng Tạ Quang Bửu, Bửu Hội, ngược lại chút nữa là Nguyễn Mạnh Tường, muộn hơn thì Trần Đại Nghĩa,… đều là thế đấy. Ra đi từ một đất nước nghèo xác, thất học, họ tự thấy cái gì cũng cần biết, đã biết phải đến nơi đến chốn, nên “cửa trường” nào có thầy hay, có lý thuyết mới, xem ra cần cho đất nước sau này, phải thỉnh giáo cho bằng được. Rồi đây, khi trở lại Pháp vào đầu những năm 50, khi mà câu chuyện “nguyên tử” đang trở thành món hàng nóng bỏng của chiến tranh lạnh, Hoàng Xuân Hãn lại “xông” vào lĩnh vực này và chỉ vài ba năm, với tuổi gần “tri thiên mệnh”, ông còn giành được bằng Kỹ sư nguyên tử ở Saclay (1956).
Trở về nước vào năm 1936, ông vừa nhận một chân giáo sư trung học tại trường Bưởi, vừa giảng dạy môn toán ở các trường Đại học Công chính Nông Lâm, Võ bị, Đại học Hà Nội,… Nhưng đấy chỉ mới là công việc truyền đạt kiến thức của một người vừa mới thâu nhập kiến thức xong và truyền đạt bằng Pháp ngữ. Một nhu cầu khác từ lâu vẫn diễn ra âm ỉ hoặc sôi nổi trong giới trí thức cấp tiến thuở ấy, đó là việc “tiêu hóa” nền văn hóa Âu Tây để hiện đại hóa văn hóa tư tưởng của nước nhà. Nhu cầu bức xúc tất nhiên lôi cuốn ngay Hoàng Xuân Hãn, bắt ông phải làm một cái gì để góp phần tâm lực của mình. Kế tục công việc xây dựng hệ thống thuật ngữ văn chương học thuật mà Phạm Quỳnh từng bền bỉ khởi công từ lâu, Hoàng Xuân Hãn một mặt chủ trương tờ Khoa học (khác với Khoa học tạp chí của Nguyễn Công Tiễu), mặt khác bắt tay soạn cuốn Danh từ khoa học nhằm đặt nền móng cho các bộ môn khoa học chính xác. Cuốn sách ra đời đã đem lại một hy vọng to lớn, có thể giảng dạy và nghiên cứu khoa học bằng tiếng Việt trong một tương lai không xa. Sách lập tức đoạt được giải thưởng của Hội Khuyến học Nam kỳ trong năm 1943, với ý nghĩa một công trình “mở đường khai lối”[i] cho việc xây dựng khái niệm và thuật ngữ khoa học của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Hoàng Xuân Hãn còn là một học giả uyên thâm về sử học và văn học. Năm 1943, khi thầy trò trường Bưởi tản cư vào Thanh Hóa để tránh bom Đồng minh oanh tạc phát xít Nhật, ông đã phát hiện bốn tấm bia quan trọng vào đời Lý, có liên quan đến nhân vật Lý Thường Kiệt và thế là ông liền bắt tay lần tìm lại bằng hết các tài liệu cổ sử của Trung Quốc và Việt Nam, kiên nhẫn vạch ra các đầu mối phức tạp của một thời đại cách chúng ta gần 900 năm, để rồi sáu năm sau cho công bố cuốn Lý Thường Kiệt nổi tiếng (1949)[ii], đến nay vẫn là một mẫu mực sáng giá trong việc nghiên cứu nhân vật lịch sử. Cũng vậy, ông đã về tận quê hương nhà thơ Nguyễn Thiếp, người đồng quận và ông tổ bên ngoại của mình, tìm được tập Hạnh Am thi cảo cùng các đạo sắc mang thư bút của Quang Trung, nhờ đó đã viết nên cuốn La Sơn Phu Tử (1952)[iii], làm sáng tỏ khá nhiều điểm về một giai đoạn quan trọng – giai đoạn Lê mạt – Tây Sơn – trong lịch sử Việt Nam. Ông còn sưu tầm được văn bản Nôm của bảy bản dịch Chinh phụ ngâm khúc, trong đó có văn bản liên quan mật thiết đến tiểu sử và văn nghiệp Phan Huy Ích và cho ra mắt công trình nghiên cứu so sánh Chinh phụ ngâm bị khảo (1953)[iv], nêu lên một giả thuyết khá rốt ráo về người dịch bản Chinh phụ ngâm hiện hành, làm xao động dư luận học giới cho đến tận bây giờ. Có thể nói Hoàng Xuân Hãn là một người thực chứng chứ không tự biện. Muốn nói gì ông phải có tài liệu trong tay và tài liệu ông đã tìm ra là “độc đắc”. Vì thế ông chính là nhà học giả đầu tiên kết hợp thật sự thành công phương pháp điều tra điền dã với sự khảo sát thư tịch, vừa coi trọng cách phân tích các thông số chính xác của khoa học thực nghiệm, vừa quan tâm đến những yếu tố ngoài văn bản như tâm lý, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, môi trường xã hội,… của tác giả và tác phẩm như một nhà nghiên cứu có tầm vóc căn hóa rộng lớn không thể không quan tâm, lại vừa ấp ủ trên từng trang viết tấm lòng sâu nặng với cội nguồn dân tộc mình. Uy tín xã hội của Hoàng Xuân Hãn đã khiến cho chính phủ Trần Trọng Kim khi thành lập – một chính phủ “không có ảo vọng gì về người Nhật”, trái lại “ đó là sự góp phần thực hiện mục tiêu mà toàn dân vươn tới: Độc lập của đất nước” (Phan Anh)[v] đã mời ông tham gia giữ chức Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật và quyền Bộ trưởng Công chánh trong vòng bốn tháng (tháng tư đến tháng tám năm 1945).

Tháng 9-1994, có dịp gặp ông tại ngôi nhà ông ngụ ở quận 16 Paris, tôi đã chứng kiến hình ảnh nhà học giả ấy trên bàn làm việc của ông. Với mái tóc lơ thơ nhưng chưa bạc bao nhiêu, khuôn mặt tinh anh và đôn hậu, mặc dầu một con mắt đã bị mờ, ông vẫn cúi gập người mài miệt trên những trang bản thảo về Truyện Kiều, xung quanh là những tủ sách đầy ăm ắp, một phần trong số đó là các bản chụp, bản sao Hán Nôm quý giá của Việt Nam. Ở tuổi 86, ông vẫn nhanh nhẹn lạ thường, tự làm lấy hầu hết các việc tiếp khách, như đun ấm điện để pha trà, bài trí lại căn phòng để chụp một vài kiểu ảnh và nhất là chạy đi chạy lại để lục lọi sách vở mang ra cho khách đọc. Tôi có cảm tưởng như sau những động tác hoạt bát ấy, ông vẫn đang phải tự chứng với mình rằng: Mình còn dư sức để làm xong những việc học thuật như đã dự liệu, những việc phiên âm, khảo chứng cổ ngữ mà chỉ ở tuổi tôi thôi, thoạt nghe cũng đã thấy lạnh cả người. Ông hăng hái bàn với tôi về các biện pháp dò tìm các tấm bia cổ có thể hiện đang nằm dưới đáy bùn của Hồ Tây hay hồ Hoàn Kiếm và mở thêm các hướng sưu tầm thực địa về thơ văn Lý – Trần (Thú thật hôm nay, nghĩ đến những việc phá đền Cẩu Nhi, lấp hồ Trúc Bạch của những kẻ hám lợi vô sỉ mà một tờ báo vừa mới nêu lên, giữa sự thờ ơ phó mặc hay gọi là ngăn ngừa lấy lệ của các giới chức sắc nào đấy và anh “trí thức Hà Nội” trong số những bạn lừa như mình thì nhìn trước nhìn sau rồi thở dài đánh sượt, coi như xong mọi sự, so sánh với tấm lòng nhiệt huyết của ông, tôi lại thấy mặt nóng bừng)[vi]. Ông băn khoăn hỏi tôi vì sao Viện Văn học để mất bản chép tay quý giá Lưu hương ký và liệu tôi có thể xin lập một Hội Nghiên cứu Hồ Xuân Hương được hay không? Tất nhiên đó đều là những câu hỏi gay cấn đối với một người đã có 35 năm ở Viện như tôi, cũng gay cấn như khi tôi phải nói về thực trạng các di tích văn hóa Lý – Trần mà mình đã trực tiếp thám sát từ mấy chục năm nay. Ý chừng ông cũng biết người đối thoại với mình có những điều khó nói, nên ông chuyển đề tài, đem tặng tôi một tập thơ đánh máy góp lại từ các bài khai bút hàng năm, mà bài đầu tiên làm vào cái Tết năm Ất Mão (1975), như đã đoán trước được vận hội nước nhà sắp tới:
Hùm đi Mèo lại: Điềm lành,
Hãy xin nâng chén tỏ tình đồng bang.
…
Chúng ta kiều ngụ tha phương,
Đồng tâm thắp một nén nhang khẩn nguyền:
Năm này: Đại cát nguyên niên.
(11-02-1975)
Tập thơ gồm phần lớn những bài thơ lục bát, ngôn từ cổ kính, phác thực, nhưng đó đây vẫn ánh lên tâm trạng nhạy cảm của một trí thức yêu nước khi theo dõi tin tức nước nhà. Có những câu thật hào hứng:
Đầu xuân nâng chén quan hà,
Đồng thanh ta chúc nước nhà quang vinh.
(Nguyên đán Bính Thìn – 1976)
Và cũng có những câu nhắc nhở nhẹ nhàng chí lý:
Chút riêng thêm lượng khoan dung,
Giúp người lầm lỡ được cùng góp công.
(Tết năm Đinh Tỵ – 1977)
Có những câu hỏi được đặt ra vào thời điểm mà dường như ở môi trường “nội địa” chưa dễ mấy người đã cảm thấy trăn trở:
Bởi đâu chậm sửa sai lầm?
(Nguyên đán Canh Thân – 1980)
Lại có những câu khuyên dặn thủ thỉ như cái cách một cụ già phương Đông dặn lại con cháu:
Đãi người, bớt ý thêm lòng mới nhân.
(Nguyên đán Tân Dậu – 1981)
Nhận thấy từ năm 1981 đến năm 1990, ngót 10 năm, ông không có bài thơ khai bút nào, tôi có hỏi lý do vì sao, ông chỉ cười mà không trả lời. Tôi cũng không gặng hỏi thêm. Từ đó cho đến lúc ra về, tôi hầu như chỉ im lặng, còn ông cũng trầm ngâm trên xấp bản thảo Truyện Kiều còn gạch xóa dang dở. “Đường xa nghĩ nỗi sau này…”, hình như cả ông và tôi, mỗi người một cách, đều bận lòng về ý tưởng của câu thơ Kiều bất chợt hiện ra ám ảnh[vii].
Mãi khi chia tay, tiễn tôi ra tận cổng ngôi nhà nhiều tầng đồ sộ, ân cần chỉ cho tôi đường đi về hướng ga tàu điện ngầm, ông còn đứng nhìn theo tôi một lúc, sau màn mưa chớm lạnh đầu tháng chín ở Paris. Tôi cảm động quay lại nhìn, vẫn thấy bóng dáng ông, với vầng trán trí tuệ ấy, đang đăm đăm đứng lặng.
Sau khi về nước chừng dăm tháng, tôi nhận được lá thư thăm hỏi của ông kèm theo bài hồi ký Ma trường Quốc học, ghi chép lại một vài kỷ niệm thuở ông còn học ở Vinh cách nay đã hơn 70 năm có lẻ. Bài hồi ký thật sinh động, như chính ông đang hiện diện, cùng Đặng Thai Mai – tên “hắc quỷ” thủ môn có hạng, Tôn Quang Phiệt – cây bút trào phúng ranh mãnh và nhiều bạn khác, giữa những ngày thơ trẻ đó. Và càng đọc, hình ảnh ông càng hằn lên trong tôi rõ nét, còn hơn cả lúc chia tay. Một con người cường ký biết bao nhiêu! Một người đứng ở giữa thập kỷ cuối thế kỷ XX mà nhìn trở lại người và việc tận những năm đầu thế kỷ sao vẫn thấy rõ, tường tận? Con người ấy đã không nhìn mọi sự bằng đôi mắt thường – đã nhìn bằng đôi mắt của hoài vọng, của linh cảm và của trí nhớ tuyệt vời minh mẫn. Cũng như khi nhìn lại Hội nghị Việt – Pháp ở Đà Lạt tháng 4-1946 mà mình có tham dự trong phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng con người ấy đã khắc tạc lại rõ mồn một cá tính của mỗi thành viên trong đoàn, trên khuôn mặt đăm chiêu, sôi nổi, giận dữ, lo âu,… vì vận nước của họ, từ Nguyễn Tường Tam trưởng đoàn, đến Võ Nguyên Giáp phó đoàn, cho đến Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Văn Luyện, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Mạnh Tường[viii],…
Hãy chúc cho bộ óc cường ký của nhà học giả tiếp tục hoạt động vượt qua cái ngưỡng của năm 2000, để chứng kiến những đổi thay hẳn còn lắm bất ngờ khả quan của vận mệnh dân tộc./.
Hà Nội, 16-11-1995
[i] Nguyễn Ngu Ý nhắc lại lời tường thuật của Ban chấm giải trong bài “Giải thưởng văn chương trên đất Việt thời tiền chiến”, Tạp chí Bách khoa, Sài Gòn, số 152 (01-5-1963), tr. 31.
[ii] Nxb. Sông Nhị, Hà Nội.
[iii] Nxb. Minh Tân, Paris.
[iv] Nxb. Minh Tân, Paris.
[v] “Luật sư Phan Anh trả lời phỏng vấn nhà sử học Tonnesson năm 1989”, in trong Hồi ký Vũ Đình Hòe; in lại trên Tạp chí Xưa & Nay, Hà Nội, số 8 (18), tháng 8-1995, tr. 11.
[vi] Xem Đào Thái Tôn, “Hồ Trúc Bạch hôm nay”, Văn nghệ số 36 (09-9-1995), tr. 14-15. Và bài “Ở một góc khuất ven hồ Trúc Bạch của một số công dân ở 82, 80, 78, 74, phố Phó Đức Chính, Hà Nội”, Văn nghệ số 39 (30-9-1995), tr. 14.
[vii] Sau cuộc gặp này, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn hiện đang hợp tác với chúng tôi trong công trình Nguyễn Du toàn tập sẽ hoàn thành nay mai.
[viii] Xem “Một vài ký vãng về Hội nghị Đà Lạt”, Tạp chí Sử Địa, Sài Gòn, số 23-24 (tháng 6 – 12-1971), tr. 3-32, 210-257.