Một sự kiện lịch sử trọng đại ở Huế: Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945

Nguyễn Hồng Trân

Tạp chí Xưa&Nay, số 360, tháng 7 năm 2010

Từ sau khi Nhật đảo chính, ba tôi (Nguyễn Chương – lính khố vàng Đại nội Huế) ít khi ở nhà. Một thời gian sau, tôi mới biết ba tôi được phân công trong đội lính khố vàng để lo canh gác cột cờ. Sau đó, nghe ba tôi nói vua Bảo Đại ra lệnh cho lính khố vàng để yên cho quân cách mạng hạ cờ vàng Nam triều xuống và kéo cờ đỏ sao vàng của cách mạng lên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu trong ngày khởi nghĩa ở Huế (ngày 23-8-1945). Việc này, về sau tôi mới biết qua sách báo do ông Đặng Văn Việt (thuộc đơn vị ông Cao Pha) thực hiện.

Chân dung hoàng đế Bảo Đại

Trong những ngày này, cả thành Huế rực cờ và khẩu hiệu. Hàng vạn dân từ các nơi kéo đến kinh thành lòng đầy hân hoan, khí thế. Tại cuộc mitting lớn ở sân vận động Tự Do (Huế) vào chiều ngày 23-8, ông Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa, tuyên bố với dân chúng rằng chính quyền đã về tay nhân dân. Lúc bấy giờ, hầu hết dân chúng thì phấn khởi, tin tưởng còn bà con hoàng tộc và gia đình các quan lại triều Nguyễn thì hoang mang, lo lắng không biết tình thế sẽ diễn biến ra sao. Mặc dù cách mạng đã thắng lợi, nhưng vua Bảo Đại vẫn còn. Nhà vua không bị lật đổ và cũng không bị tiêu diệt ngay như ở nước Pháp, nước Anh ngày xưa mà Chính phủ Cách mạng lâm thời đã gợi ý cho Bảo Đại thoái vị để giữ danh dự cho nhà vua, đồng thời để bảo vệ an toàn cho chính quyền đang lúc trứng nước khỏi bị các thế lực hận thù phản kháng, gây tổn thất về nhân tài, vật lực không cần thiết cho đất nước. Đó quả thật là một sách lược sáng suốt, rộng lượng và hợp lý của Cụ Hồ và các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Bắt đầu từ chiều ngày 25-8, nhiều người kéo đến Phu Văn Lâu để xem tờ chiếu thoái vị của vua Bảo Đại (Tờ chiếu này vua sai ông Đổng lý văn phòng Phạm Khắc Hòe dự thảo và đã thông qua (có sửa đổi) tại cuộc họp Nội các do vua Bảo Đại chủ tọa và gồm có các ông: Trần Trọng Kim, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Trịnh Đình Thảo, Vũ Văn Hiền và Nguyễn Hữu Thí). Trong đó có đoạn:  “Mặc dầu Trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua trong 20 năm mới gần gũi quốc dân được mấy tháng, chưa làm được gì ích lợi cho quốc dân như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền quốc dân lại cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa… Trẫm ưng làm dân một nước độc lập, hơn làm vua một nước nô lệ”.

Tuyên cáo thoái vị của hoàng đế Việt Nam – Bảo Đại, ngày 25-8-1945. Ảnh chụp bản gốc Chiếu thoái vị tại Trung tâm lưu trữ quốc gia III.

Đọc xong đoạn này, nhiều người trầm trồ khen ngợi rằng, vua Bảo Đại đã nói được một câu bất hủ.

Chiều ngày 30-8-1945, một sự kiện lịch sử trọng đại tại Huế đã chuyển mình. Đó là lễ thoái vị chính thức của vua Bảo Đại tại lầu Ngũ Phụng, cửa Ngọ Môn (Đại Nội của kinh thành Huế). Hồi đó, tôi mới học lớp nhì. Mẹ tôi không cho đi tự do với bọn trẻ con mà dắt tôi cầm cờ đi theo bà con trong phường Huệ An ra dự lễ. Sân cột cờ và quanh cửa Ngọ Môn người dày đặc chờ đón đoàn đại diện Chính phủ Lâm thời vào dự lễ thoái vị của nhà vua. Khoảng 3 giờ chiều, toán xe con chở đoàn từ từ chạy vào cổng giữa Ngọ Môn giữa tiếng reo hò vang dội của cả biển người đang hăm hở chờ mong. Trên lầu Ngọ Môn, vua Bảo Đại y phục chỉnh tề đứng lên chào đón đoàn. Tiếng hoan hô cùng với khẩu hiệu: “Việt Nam muôn năm!”, “Hồ Chí Minh muôn năm!”, “Hoan hô nhà vua thoái vị!”,… làm rung động cả kinh thành. Sau đó, buổi lễ chính thức bắt đầu. Ban tổ chức giới thiệu đoàn đại biểu gồm có: Ông Trần Huy Liệu (Trưởng đoàn), ông Nguyễn Lương Bằng, ông Cù Huy Cận,…

Đầu tiên, ông Liệu đọc lệnh của Chính phủ cử đoàn vào tiếp nhận lễ thoái vị của nhà vua. Sau đó, Bảo Đại đọc bài chiếu thoái vị. Giọng vua dõng dạc trầm vang, có lúc nghẹn ngào, xúc động, trong đó có đoạn: “Còn về phần riêng trẫm, sau 20 năm ngai vàng, bệ ngọc, đã biết bao ngậm đắng, nuốt cay… Từ nay trẫm lấy làm vui được làm dân tự do của một nước độc lập, chứ trẫm nhất quyết không để cho ai lợi dụng danh nghĩa của trẫm hay của hoàng gia mà lung lạc quốc dân nữa…”.

Một bức ảnh chụp buổi lễ thoái vị

“Việt Nam độc lập muôn năm!

Dân chủ Cộng hòa muôn năm!”…

Khi Bảo Đại dứt lời thì trên kỳ đài cờ vàng nhà vua từ từ hạ xuống. Mấy phát lệnh nổ ầm vang. Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh được kéo lên tung bay theo gió chiều lồng lộng giữa kinh thành Huế trong tiếng hò reo như sấm dậy.

Tiếp đến, Bảo Đại thực hiện thủ tục trao cho Trưởng đoàn Chính phủ chiếc quốc ấn bằng vàng nặng hơn chục cân và thanh quốc kiếm để trong bao vỏ bằng vàng có nạm ngọc.

Nhận ấn kiếm xong, ông Trần Huy Liệu đọc lời phát biểu tiếp nhận sự thoái vị của nhà vua. Trong đó có đoạn: “Lịch sử nước nhà đã tới một giai đoạn mới: Chính phủ đế chế phải nhường chỗ cho chính thể dân chủ cộng hòa. Đó là nguyện vọng chung của toàn thể quốc dân…

Đồng bào hãy cùng tôi hô to: “Việt Nam hoàn toàn độc lập muôn năm!”, “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm!”.

Hàng vạn người dự lễ đều hô to vang trời:  “Muôn năm!”.

Theo đề nghị của Bảo Đại, trong lễ thoái vị này, ông muốn có một vật kỷ niệm của Chính phủ Lâm thời, nhưng hoàn cảnh lúc đó Chính phủ Cách mạng lâm thời cũng chưa kịp chuẩn bị một vật gì xứng đáng thích hợp để kỷ niệm cho nhà vua lúc thoái vị. Vì vậy, ông Cù Huy Cận thay mặt đoàn Chính phủ, trao tặng một huy hiệu Cờ đỏ sao vàng, rồi quay ra nói với đồng bào: “Chính phủ Lâm thời trao cho công dân Vĩnh Thụy huy hiệu Cờ đỏ sao vàng. Xin đồng bào hoan nghênh công dân Vĩnh Thụy”. Mọi người vỗ tay hoan hô!…

Lễ thoái vị của ông vua cuối cùng của triều Nguyễn kết thúc. Cựu hoàng Bảo Đại tươi cười giơ tay vẫy chào đồng bào và xuống dưới phía sau lầu Ngũ Phụng cởi hết y phục nhà vua, rồi lên xe ra về.

Đoàn đại biểu đại diện cho Chính phủ Cách mạng lâm thời đã thực hiện thành công tốt đẹp nhiệm vụ trọng đại của đất nước Việt Nam trong buổi lễ công nhận thoái vị của nhà vua và tiếp nhận ấn kiếm của nhà vua trao lại cho Chính phủ mới. Thế là đất nước Việt Nam đã chấm dứt chế độ phong kiến quân chủ đã kéo dài quá lâu và từ nay dân tộc ta đã chuyển sang một trang sử mới, một chế độ mới, chế độ dân chủ cộng hòa.

Bài liên quan

Bài đăng mới