Đỗ Hữu Vị, Đại úy không quân Pháp, ông là con thứ 5 của Tổng đốc Đỗ Hữu Phương. Đỗ Hữu Vị sinh ngày 17-02-1883 ở Chợ Lớn. Ông sang Pháp học ở trường trung học Janson de Sailly. Ngày 01-10-1904, ông được vào học trường võ bị Saint-Cyr. Hai năm sau, ông được phong cấp Thiếu úy Binh đoàn hải ngoại số 1.

Ông tham gia chiến đấu với Đức ở mặt trận Oudjda rồi Casablanca, từ năm 1907-1908. Ông đã oanh liệt chiến đấu cùng với một nhóm binh sĩ Pháp tuyệt vọng trong một ngôi làng bị quân Đức bao vây.
Cuối năm 1908, Thiếu úy Đỗ Hữu Vị tham dự mặt trận phía bắc Haut Guir. Và năm 1910, ông tham gia một trận chiến quan trọng với quân du kích ở biên giới Maroc – Algerie. Đó là 4 năm gian nan của một chiến binh vừa mới rời quân trường.
Trung úy Đỗ Hữu Vị đã say mê những con chim sắt và bị ngành hàng không mê hoặc. Ngày 10-12-1910, ông làm đơn tình nguyện xin gia nhập vào không quân. Mười một tháng với nhiều buổi học tập bay trên bầu trời nguy hiểm, Đỗ Hữu Vị được công nhận là một phi công chiến đấu. Ông được ghi vào danh sách là một trong những người đầu tiên lái máy bay vòng quanh nước Pháp.
Bước vào cuộc chiến bằng không quân, Đỗ Hữu Vị được điều động vào phi đội Maroc phương Tây năm 1912 và phục vụ phi đội này đến năm 1913. Trên báo Echo du Maroc, người ta đọc được tin ngày 12-12-1912, phi công Đỗ Hữu Vị là người đầu tiên mang dấu hiệu Tam tài của lá cờ Pháp vượt qua dãy hoành sơn Atlas của Maroc. Đó là chuyến bay quan sát vị trí của tiểu đoàn Massoutier bị quân Dar El Kadi bao vây nguy kịch ở phía nam Mogador.
Đỗ Hữu Vị được coi là một trong những người tiên phong của không quân Maroc. Tên ông được đặt tên cho một con đường ở thành phố Casablanca: Đo Hưu.
Năm 1914, Đỗ Hữu Vị được điều động về Việt Nam nhưng ông không tham gia chiến đấu. Ông chỉ phải thực hiện các phi vụ nghiên cứu sông Mê Kông và sông Hồng để thực hiện tuyến lưu thông đường sông cho loại tàu lướt chạy bằng cánh quạt gió Lambert. Nhưng cũng vào lúc đó, ở Âu châu, Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Đỗ Hữu Vị phải trở lại Âu châu để chiến đấu.
Đỗ Hữu Vị đã nghe theo lời mẹ, thực hiện bổn phận đối với tổ quốc Pháp một cách cuồng nhiệt không gì ngăn cản được. Một ngày giông bão, ông gạt qua mọi lời khuyến cáo, lái máy bay xông thẳng vào tuyến lửa của quân Đức. Ông phá hủy nhiều mục tiêu của quân thù. Trên đường về, mưa bão đã hạ gục chiếc máy bay anh dũng của ông. Ông bị trọng thương và bị kẹt cứng trong chiếc máy bay chiến đấu vỡ nát. Cánh tay bị gãy, xương hàm và xương sọ bị nứt. Cứu thương đã nhanh chóng đưa ông về Val-de-Grâce trong tình trạng nguy kịch không hy vọng sống sót. Ông trải qua 9 ngày đêm mê man và vượt qua khỏi cơn nguy kịch, sức khỏe ông dần dần hồi phục.
Trải qua một cơn thập tử nhất sinh, Đỗ Hữu Vị xứng đáng được nghỉ ngơi yên ổn nơi hậu phương. Nhưng không, ngay khi còn nằm trên giường bệnh, ông nhất quyết đòi ra mặt trận. Khi xuất viện, Bộ Tư lệnh Không quân đã không cho ông được tiếp tục lái máy bay. Nhưng thông cảm nhiệt tình chiến đấu của ông, Bộ Tư lệnh đã cho ông giữ vị trí quan sát viên trên các loại máy bay ném bom. Rồi cùng với phi công xuất sắc Marie Bounier, Đỗ Hữu Vị tham gia nhiều phi vụ ném bom oanh tạc phòng tuyến quân Đức.
Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Không quân không thể kéo dài tình trạng ngoại lệ là sử dụng một quân nhân thương tật trong công tác nguy hiểm. Về phía mình, Đỗ Hữu Vị không muốn ngồi trong bàn giấy hậu phương, ông xin được trở lại đơn vị cũ, Binh đoàn hải ngoại số 1 với cấp bậc Đại úy lê dương, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn số 7.

Vừa nhận nhiệm vụ, Đại úy Đỗ Hữu Vị nhận lệnh mở ngay cuộc hành quân. Hăng say chiến đấu với khẩu súng lục trên tay, Đỗ Hữu Vị xung phong lao lên trước đoàn quân với nhiệm vụ đánh chiếm đoạn đường Chancelier, nối giữa Belloy en Santerre và Estree. Nhưng đợt sóng xung phong vừa mới lao lên, đối phương đã đáp trả bằng một cơn bão lửa đạn xối xả chặn đứng ngay bước tiến của đoàn quân. Đại úy Đỗ Hữu Vị vẫn lao lên phía trước bỏ lại đoàn quân phía sau cách ông gần 100m. Một viên đạn ghim vào đùi ông làm gãy xương khiến ông bị thương. Mặc dù, không đủ sức tiến lên để được cứu thương, Đỗ Hữu Vị vẫn cố sức tiến lên. Một viên đạn thứ hai đã bay trúng vào đầu khiến ông gục xuống. Đó là lúc 16 giờ ngày 09-7-1916, Đỗ Hữu Vị mãi mãi không còn đứng dậy nữa. Xác của ông được chôn ở một thôn nhỏ thuộc Dompierre ở Somme cùng với các chiến hữu của mình.
Tên của ông lại được đặt tên cho một con đường ở Sài Gòn nay đổi là Huỳnh Thúc Kháng.
Khi sinh thời, Đỗ Hữu Vị thường nói với bạn bè rằng: “Tôi phải can đảm gấp đôi vì tôi vừa là người Pháp, vừa là người An Nam”. Ngày 12-5-1920, Đại tá Pháp Đỗ Hữu Chấn, con trai trưởng của Đỗ Hữu Phương, đã đưa hài cốt Đỗ Hữu Vị về Việt Nam, an táng tại nhà thờ họ Đỗ Hữu ở Chợ Lớn.