Nguồn gốc chữ trà & chè

Đỗ Ngọc Quý

Tạp chí Xưa&Nay, số 72B, tháng 2 năm 2000

Hà Nội 36 phố phường có câu ca dao “Uống chè mạn hảo, ngâm nôm Thúy Kiều”, Lê Quý Đôn trong Vân Đài loại ngữ (1773) đã viết “Nay xét mấy ngọn núi Am Thiền, Am Giới và Am Các, ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa, đều sản xuất thứ chè ấy, mọc xanh om đầy rừng. Thổ dân hái lá chè đem về, có một làng tên là Vân Trai, giúp Bạng Thượng chuyên nghề làm chè giã nát để bán, gọi là chè Bạng”.
Nguyễn Trãi viết “Sớm ba chén chè sen, mát ruột nài chi vò đất hẩm hiu”. Phạm Đình Hổ (1768-1839) trong Vũ trung tùy bút cũng viết “Kẻ thì ưa thanh cao, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên, mua cho được chè ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền mua sẵn cho được hiệu chè Chính Sơn… mà ung dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức”.

Như vậy thời xưa dùng chữ chè chỉ cả cây trồng và sản phẩm. Miền Bắc ngày nay, có 2 chữ trà và chè dùng chỉ cây trồng và sản phẩm

“Chắc chắn nước chè xanh là mặt hàng cốt yếu” (Nguyễn Chí Hoan); hay các câu “Văn hóa chè và Trà đạo Việt Nam” (Ngô Linh Ngọc); “Viện nghiên cứu chè Phú Hộ có nhiều giống chè như Trung Du, Shan, Trung Quốc và Ấn Độ” hoặc “Vinatea trong năm 1998 đã xuất khẩu 17.000 tấn chè đen, chè xanh…”; “Nguồn gốc cây chè và nghệ thuật pha uống chè (Minh Viễn); “Uống trà và tính cách” (Kiều Tỉnh). Tóm lại danh từ chè dùng chỉ cả cây trồng và sản phẩm chế biến không phân biệt.

Còn Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, lại dùng chữ trà để chỉ sản phẩm như trong Những chiếc ấm đất “Ngày xưa, có một người ăn mày cổ quái… thế mà hắn còn chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin… Hắn gãi tai, tiến lại gần, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho hắn “uống trà tàu với!”.

Trong Chén trà sương cũng viết “Sớm nào dậy cụ cũng ngâm một bài thơ. Giọng thật ấm, thật trong, cụ hay ngâm mấy câu này:

Mai sớm một tuần trà
Canh khuya dăm chén rượu,
Mỗi nhật cứ như thử,
Lương y bất đáo gia.

Còn ở miền Nam thì dùng chữ trà chè, có phân biệt rõ cây trồng và sản phẩm chế biến như sau: “Công ty chè Lâm Đồng có trà Rồng vàng”; “người miền Nam thích uống trà Tiến Đạt, Đỗ Hữu, Quốc Thái, Thiên Hương” hay “Trạm nghiên cứu thực nghiệm chè Lâm Đồng có nhiều giống chè như TB 14, LĐ 97, PH 1, Kim Huyên, Yabukita…”

Cách dùng này giống như trong tiếng Pháp, le thé có nghĩa là sản phẩm trà, còn le théier có nghĩa là cây chè, khác tiếng Anh tea dùng để chỉ sản phẩm trà cũng như cây chè.

Vậy tràchè dùng thế nào là đúng?

Chè là tên gọi của một thứ nước uống dân dã bảo vệ sức khỏe của thời đại

Theo Dược sỹ Đặng Hanh Khôi (1983), ở nhiều nước, chữ chè đều dùng để chỉ nhiều cây không phải là chè thật (Camélia sinensis); thí dụ chè Pháp thực chất là cây đan sâm, làm thuốc bổ cho phụ nữ, chè Mỹ, chè Máctinic là một loại cây thuộc Họ hoa mõm chó, chè Braxinchè Paraguoay là cây nhựa ruồi Paraguoay Ilex paraguensis dùng làm thuốc chống đói, có tác dụng kích thích như cà phê, mà uống lại có vị cây bạc hà; chè Mehicô có tên là cây chân ngỗng Chénopodia ambrosiosides thuộc Họ cây rau muối; chè Pêru là cây ca – cao Théobroma cacao; chè Mông cổ là cây tai hổ; chè Châu Âu là cây huyền sâm Véronica officinalis có vị hơi đắng, lại có tác dụng kích thích và tăng lực; chè Abitxini mọc ở Đông Phi có tác dụng giảm mệt và chống buồn ngủ; chè Fontainebleau có tên là cỏ hạt ngọc vì có hạt trắng như viên ngọc rất nhỏ.

Tại Việt Nam, có chè dây hay chè Hoàng giang còn gọi là chè Trường Sơn mọc nhiều ở dọc đường Trường Sơn; cây chè vằng dễ nhầm với cây lá ngón độc, nếu không để ý đến hoa cây này; cây chàm có lá thường dùng để thay cây chè còn có tên là chè đồng, chè cay. Dân gian có chè nụ vối, chè gừng, chè hoa hòe, chè giải nhiệt…

Có những sản phẩm khác cũng gọi là chè, nhưng không phải là chè thật (Camélia sinensis); đó là chè thuốc. Trong y học dân gian, dân tộc nào cũng có những loại chè thuốc này. Chè thuốc pha theo kiểu pha chè, được nhân dân rất ưa thích và mọi người ai cũng có thể làm được. Ngày nay y học vẫn phát triển các loại chè thuốc này, ngay cả các nước có công nghiệp hóa dược hiện đại. Việt Nam đang bào chế các loại chè giải nhiệt, chè an thần, chè chống cảm cúm… Liên Xô cũ có chè khai vị, chè vitamin, chè lợi mật. chè lợi tiểu, chè nhuận tràng, chè chữa bệnh thận.

Lịch sử về văn hóa uống trà của người Việt

Tóm lại danh từ chè có nghĩa rộng, dùng để chỉ một thứ nước uống có tác dụng chữa bệnh cho con người, đúng như vị danh y Hoa Đà ở Trung Quốc đã phát hiện trà là một dược liệu “Trà vị khổ, ẩm chi sử nhân ích tư, thiểu ngọa, khinh thân, minh mục” (Chè có vị đắng, uống vào làm cho con người tư duy tốt, ít nằm, thân nhẹ nhàng, mắt tinh sáng).

Nguồn gốc chữ trà trong lịch sử cổ đại Trung Quốc

Sự định dạng và định hình của chữ trà ở Trung Quốc. Trong thời cổ đại Trung Quốc còn chưa có chữ viết. Dựa vào truyền thuyết và ngôn ngữ, các nhà khảo cổ đã xác định chữ trà (văn tự trà) có từ đời nhà Chu. Trong cuốn sách cổ Nhĩ Nhã (Nói về cây cối) đời nhà Chu, do Dịch Lâm biên soạn, có ghi câu “Giả – khổ trà’ (Giả là chè đắng). Âm đọc của chữ trên là Jỉa, gần giống âm chữ trà.

Trước đời nhà Tần, ngôn ngữ các liệt quốc còn khác nhau và chưa thống nhất. Cùng một sự vật, nhưng tên gọi lại khác nhau, chữ viết cũng không giống nhau. Trước nhà Đường, chè có tên gọi và 6 kiểu chữ viết khác nhau. Bắt đầu từ thời kỳ trung Đường trở về sau, tên gọi chè thường đọc âm Cha. Trước đời nhà Đường một chữ có nhiều chức năng khác nhau, và một chữ cũng chỉ nhiều sự vật khác nhau. Vào khoảng năm 750 trước công nguyên, chữ trà có nhiều nghĩa và chỉ 3 vật khác nhau:

1.Một thứ nước uống

2.Một loại cây rau đắng

3.Hoa trắng của một loại cây cỏ

Theo Trà Kinh, chữ trà xuất hiện từ thời kỳ “khai nguyên văn tự âm nghĩa” (bắt đầu có chữ viết làm biểu tượng). Chữ trà hiện nay đã được định hình trên 1300 năm, Chữ trà có nhiều cách đọc khác nhau: Trung Quốc là một nước rộng mênh mông, có nhiều dân tộc thiểu số; mỗi dân tộc có cách đọc và viết chữ chè, theo tập quán riêng của mình. Ngay cả dân tộc Hán cũng có chữ viết và tiếng đọc khác nhau theo từng vùng lãnh thổ (thổ ngữ, thổ âm).

Ngày nay, tên gọi của nước trà đều xuất phát từ Trung Quốc truyền đến theo 2 luồng sau đây:

-Âm Hán phổ thông Cha của chữ trà.

-Thổ âm địa phương Tey vùng Hạ Môn, Phúc Kiến.

Hai âm trên lần lượt truyền bá ra ngoài bằng con đường buôn bán chè với các nước láng giềng, phương Tây và phương Bắc.

Âm Cha lan truyền đầu tiên sang nước láng giềng phía Đông là Nhật Bản, đọc là Cha. Sau đó lan truyền sang nước phía Tây là Ba Tư (Iran) bằng, “Con đường tơ lụa thời Mác cô Pô Lô”, gọi là Cha, rồi sau biến âm thành Shai của người Ả Rập; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ gọi là Chay; tiếng Bồ Đào Nha gọi là Cha; tiếng Nga ở phía Bắc gọi là Trai nước láng giềng của Ấn Độ như Xrilanka, Pakitxtan gọi là Cha, theo tiếng Sinhale (Srilanka).

Việt Nam láng giềng của Trung Quốc gọi là trà theo âm Hán Việt và chè là âm Việt Hán theo Giáo sư Diệp Đình Hoa.

Thổ âm Hạ Môn Tey truyền bá ra nước ngoài vào thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà Thanh. Khi các đội thương thuyền của phương Tây đến buôn bán trao đổi hàng hóa, từ những quốc gia viễn dương đến Trung Quốc.

Đầu tiên là các đội thương thuyền của Công ty miền Đông Ấn Độ, năm 1644 đã cập bến cảng biển Hạ Môn, thiết lập một Phòng Thương mại và gọi chè là Tey theo thổ dân của vùng Hạ Môn viết sang tiếng Anh Tee, rồi lại biến thành Thee cuối cùng là chữ Tea ngày nay.

Từ đó âm Tea được phổ cập trên thế giới; tiếng Pháp gọi là Thé; tiếng Đức gọi là Tee; tiếng Tây Ban Nha gọi là ; tiếng Hà Lan gọi là Thee; các âm trong ngôn ngữ các nước chỉ chè nói trên đều xuất phát từ âm Tea tiếng Anh, bắt nguồn từ thổ âm Tey của Hạ Môn ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Tôi không có tham vọng làm một nhà ngôn ngữ học, mà chỉ xin cung cấp một số thông tin với mong muốn đơn giản góp phần tư liệu bổ sung để làm trong sáng tiếng Việt trong ngôn ngữ mà thôi. Đề nghị tham khảo thêm các văn bản pháp quy về tiêu chuẩn chè đã ban hành của Cục tiêu chuẩn chất lượng nhà nước và Từ điển bách khoa Việt Nam đã xuất bản đều dùng chữ chè để chỉ cây trồng và sản phẩm mà không thấy dùng chữ trà.

Bài liên quan

Bài đăng mới