Sau khi quần đảo Guyane thuộc Pháp thiết lập chính quyền cai trị, từ năm 1850 đến 1852, đảo Guyane thật sự trở thành “địa ngục trần gian”. Chính sách độc tài của hoàng đế Napoléon Đệ tam đã khiến cho các nhà tù trong nước không còn chỗ chứa. Napoléon quyết định dùng nơi ma thiêng, nước độc Guyane làm nơi lưu đày tù nhân khổ sai, tù chính trị trong nước Pháp và tù từ các thuộc địa của Pháp. Người ta hỏi Napoléon lấy ai canh giữ bọn tù nhân này? Ông ta trả lời: “Lấy bọn đầu trộm đuôi cướp hơn canh giữ chúng”.
Ông ta bắt đầu đầu tư xây dựng các nhà tù Saint Laurent du Maroni, Cayenne Île du Diable. Tính từ năm 1850 đến 1945, hệ thống nhà tù ở Guyane đã giam giữ trên dưới 70 ngàn tù nhân người Pháp và tù nhân các nước thuộc địa của Pháp (trong đó ước tính khoảng 7.000 tù nhân An Nam). Đã có biết bao câu chuyện bi hùng của những tù nhân An Nam bị lưu đày sang Guyane những năm cuối thế kỷ XIX và những năm đầu thế kỷ XX. Guyane có các đảo nhỏ cách biệt nhau. Thực dân Pháp xây dựng các nhà tù cách biệt: Đảo Salut xây dựng thành một khu nhà tù khổng lồ và tàn bạo nhất thế giới; đảo Royal là một khu nhà tù bệnh viện; đảo Joseph là nơi giam tù nổi loạn; đảo Diable dành cho tù gián điệp và tù chính trị.
Năm 1852, chuyến tàu đầu tiên chở tù khổ sai từ đất liền ra đảo. Với mục đích cần nhân công khai thác vùng đất màu mỡ Guyane và không muốn các tù nhân bị đày trở về Pháp hay các nước thuộc địa khi hết hạn tù phải biệt xứ vĩnh viễn, chính quyền Pháp đưa ra đạo luật La loi du doublage. Theo luật này, tù nhân khi mãn hạn (từ 10-20 năm) sẽ ở lại đảo đến cuối cuộc đời. Từ năm 1862-1864, thực dân Pháp nghĩ đến việc đưa tù nhân các nước Đông Dương sang Guyane. Người tù An Nam đầu tiên là Đặng Văn Tòng, nghĩa quân đồn Kỳ Hòa Sài Gòn bị Pháp bắt đày đi Guyane giam giữ ở Inini. Ngày 22-4-1964, ông Nguyễn Hữu Huân (Thủ khoa Huân) bị kết án 10 năm khổ sai và đày sang Guyane cùng một đồng đội của mình. Trong thời gian ở Guyane, Nguyễn Hữu Huân đã sáng tác nhiều bài thơ bày tỏ nỗi lòng yêu nước của mình. Ông tâm sự:
Trăm việc nên hư bởi tại trời,
Cái thân chìm nổi biết bao nơi.
Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
Ngàn dặm non sông dạo bước chơi…
Chén rượu Tân Đình chưa mãn tiệc,
Câu thơ ái quốc chẳng ra lời.
Anh hùng chí cả nam nhi phận,
Hễ đấng làm trai chác nợ đời.
Năm 1869, một trận dịch bệnh tù nhân chết quá nhiều, gây rung động ở chính trường nước Pháp. Chính phủ Pháp ra lệnh tạm đóng cửa các nhà tù ở Guyane. Thay vào đó, chính phủ cho xây dựng nhà tù ở Nouvelle Calédonie và Vanuatu ở Nam Thái Bình Dương, nơi có khí hậu ôn hòa hơn.
Tháng 02-1869, Nguyễn Hữu Huân được trả tự do, cho về quê và bị quản thúc tại nhà Đỗ Hữu Phương ở Chợ Lớn. Năm 1872, Nguyễn Hữu Huân trốn khỏi sự quản thúc, về Mỹ Tho tiếp tục hoạt động chống Pháp, bị bắt lại và bị hành hình ngày 19-5-1874.
Từ 1879 đến 1923, thực dân Pháp có 10 chuyến tàu đưa tù nhân An Nam đi đày ra đảo Guyane. Ngày 26-3-1879, chuyến tàu đầu tiên đưa một số tù nhân An Nam ở Côn Đảo đày đi Guyane.
Năm 1885, Quốc hội Pháp ban hành một đạo luật mới. Để tăng cường lực lượng lao động khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thuộc địa Guyane, chính quyền ở thuộc địa Pháp bắt đầu đưa cả tù thường phạm sang Guyane nhưng cũng không đáp ứng nổi nhu cầu. Vì thế Quốc hội Pháp thông qua một đạo luật, theo đó bất cứ thường phạm dù nam hay nữ phạm tội, bắt quả tang ba lần trộm cắp, mỗi lần bị giam quá ba tháng sẽ bị đày đi Guyane. Những người này đày đi Guyane và bị giam trong 6 tháng. Người mãn hạn tù phải ở lại làm ăn sinh sống, không được trở về quê hương. Trong năm 1885, thực dân Pháp lần thứ ba đưa tù nhân An Nam sang Guyane. Ngày 12-02-1887, chuyến tàu thứ tư chuyển tù nhân An Nam sang Guyane. Trong năm 1890, có nhiều tù nhân An Nam bị đày sang Guyane. Ngày 18-02-1891 lại có thêm các chuyến tàu đưa tù nhân An Nam từ Côn Đảo sang Guyane. Như vậy, số lượng tù nhân An Nam đày sang Guyane mỗi năm nhiều thêm.
Thực dân Pháp tính toán rằng: Một tù nhân An Nam bị giam ở Côn Đảo, mỗi năm, chính phủ Pháp phải chi 266 Francs. Ở Côn Đảo, tài nguyên thiên nhiên không nhiều, nên sản phẩm lao động của tù nhân làm ra không đủ chi phí. Việc chuyển tù nhân sang Guyane chi phí vận chuyển ban đầu chỉ tốn 300 Francs, nhưng mỗi ngày tù nhân lao động có thể mang lại sản phẩm trị giá 17 Francs. Ngoài ra, việc đưa tù nhân sang Guyane còn để tù nhân khó vượt ngục, biện pháp này nhằm diệt tận gốc tư tưởng và hành động chống đối chính phủ thuộc địa.
Ngày 21-6-1893, ở Khám lớn Sài Gòn, Ban Giám thị lập danh sách những tù nhân An Nam để đưa sang Guyane. Số tù nhân này bắt đầu khởi hành từ tháng 7-1893. Bản danh sách này có xác nhận của Giám đốc Khám lớn (Hồ sơ ký hiệu 1A1/084, phông Goucch. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II). Thông qua tài liệu này cho thấy, Khám lớn Sài Gòn nằm trong hệ thống trực tiếp chuyển tù nhân An Nam sang Guyane, không bắt buộc phải qua nhà tù Côn Đảo. Năm 1893, tàu Calédonie đến Sài Gòn lấy gạo và nhận chở 130 tù nhân An Nam bị giam giữ ở Côn Đảo đưa đi Obock. Obock là một thị trấn nhỏ của Somalie thuộc địa Pháp ở châu Phi. Số tù nhân này đều là chiến sĩ Cần Vương – Văn Thân.
Đầu năm 1914, bốn chiến sĩ Đông du và tù binh Đề Thám lên tàu sang Guyane. Tàu ghé qua cảng Alger, thay vì đi thẳng sang Cayenne thủ phủ Guyane, tàu lại dừng ở cảng Marseille. Ngồi trên xe tù đi ngang thành phố Marseille, Nguyễn Quang Diêu nhìn thấy cảnh một thành phố văn minh hiện đại của nước Pháp. Ông thầm đặt câu hỏi: Không hiểu vì sao một dân tộc văn minh như nước Pháp lại có thủ đoạn tàn ác đối với người dân các nước nhược tiểu? Tức cảnh chạnh lòng làm một bài thơ:
Chẳng biết rằng mình có tội chi?
Tội chi dù có, có nao gì?
Phép thần công lý đành không hiệu,
Luật nước văn minh ngẫm cũng kỳ.
Tàu dừng lại ở Marseille vài tuần, sau đó đưa tù nhân sang Guyane.
Saint Laurent du Maroni, một làng cách biển 120km nằm bên bờ sông Moroni hình thành một trại giam tù mới. Tù nhân từ Pháp, Đông Dương và các nước thuộc địa đưa sang Guyane đều tập trung ở Saint Laurent để phân loại:
- Tù loại 1 là loại tù nguy hiểm. Nếu là thường phạm đưa ra đảo Saint Joseph và đảo Royale, tù chính trị đưa ra đảo Diable.
- Tù loại 2 được ở lại Saint Laurent, hàng ngày đi lao động. Trong thời gian ngồi tù, nếu vi phạm nội quy sẽ bị đưa sang các trại khổ sai như: La Forestière, Chevin, Cascade, Vịnh Đỏ, Trại tử thần.
- Tù loại 3, loại thường phạm bị kêu án khổ sai 5 năm tù, những người này không phải lao động nặng. Họ được phân công làm lao dịch ở ban quản lý nhà lao: Làm bếp, quét dọn, được học việc và làm trong các xưởng máy, xưởng mộc, xưởng may, lò bánh mì,…
Tại Guyane, sau những lần vượt ngục của nhóm tù nhân Đông du Nam kỳ, nhà tù Cayenne xiết chặt kiểm soát. Nhóm tù chính trị Đông Kinh Nghĩa thục gồm Đỗ Văn Phong và 12 chiến hữu khác, lợi dụng lúc đi lao động trong rừng, họ đóng bè giấu kín trong rừng nhiều ngày. Một hôm thuận tiện, 13 người dùng bè vượt biển chạy sang đảo Trinidad. Sau đó được Lý Liễu – nguyên một tù nhân ở Guyane đang làm cho một tổ chức thương hội Hoa kiều ở đây giúp lấy giấy thông hành người Hoa để đáp tàu về Hồng Kông.
Một câu chuyện lý thú về dây mướp hương, một loại đặc sản Việt Nam theo người tù An Nam sang Guyane được sinh sôi trên đất Nam Mỹ này. Đó là câu chuyện về tù nhân An Nam Trương Văn Kiện, một nghĩa quân của khởi nghĩa Yên Bái. Khi bị giam giữ ở Côn Đảo, anh có thói quen mỗi lần đi tắm cũng lận lưng mang theo một xơ mướp để kỳ cọ các vết xăm trên mình. Lúc lên tàu sang Guyane, anh cất trái xơ mướp khô trong ruột tượng mang theo. Sang Guyane, không ngờ trong xơ mướp còn sót lại vài hạt. Anh mang trồng, không ngờ dây mướp phát triển rất tốt. Thế là từ đó cây mướp hương lan trồng khắp đảo và trong bữa ăn của những người An Nam có thêm món canh mướp hương của quê hương Việt Nam. Đúng ngày 01-5-1932, bảy trái mướp hương đầu tiên được cắt xuống, anh em chia nhau món quà quê hương đất mẹ, mọi người xúc động muốn khóc vì nhớ nhà. Hôm đó, để mọi người được thưởng thức vị ngọt của quả mướp hương, bảy trái mướp được xắt nhỏ cho vào nấu chung với thịt heo để anh em cùng thưởng thức. Từ đó trên đất đảo Guyane có thêm giống mướp hương Việt Nam. Lịch sử thực vật Guyane ghi nhớ tên người đã có công mang nó sang Guyane là Trương Văn Kiện.
Năm 1935, tù nhân từ Pháp và tù nhân từ các nước thuộc địa đưa sang Guyane càng lúc càng nhiều. Các nhà lao không đủ chứa. Toàn quyền Guyane cho rằng tù nhân An Nam có kinh nghiệm xây nhà lao lnini nên huy động cho một số tù nhân An Nam ở Inini đến Crique Anguille để xây dựng nhà tù mới, đặt tên là Crique Anguille. Crique Anguille ở phía bắc Inini, cách Cayenne 100km. Đây là một khu rừng thiêng, nước độc chưa khai phá. Tên gọi Crique Anguille vì ở đây có giống lươn phát điện sống trong các đầm lầy. Nhà tù xây xong, tất cả tù nhân An Nam còn lại ở nhà tù Inini đều bị đưa về đây.
Trong thời gian hai năm ở nhà tù Inini, 500 tù nhân An Nam bị bệnh chết đi một nửa, có 20 tù nhân vượt ngục trốn thoát. Năm 1935, nhiều tù nhân An Nam hết hạn tù nhưng chính phủ Pháp áp dụng đạo luật Doublage buộc họ ở lại Guyane. Vì thế, nhiều tù nhân thời Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa thục, Đề Thám,… đã phải ở lại lấy vợ bản xứ và lập nghiệp. Còn tù nhân An Nam ở Crique Anguille thì phản đối đạo luật này. Họ tổ chức tuyệt thực một tháng để yêu cầu chính phủ Pháp phải cho những người mãn hạn tù trở về nước. Để chuẩn bị cho cuộc tuyệt thực, tù nhân bí mật dự trữ lương thực nên trong một tháng tuyệt thực vẫn bảo toàn lực lượng. Mặc dù không thỏa mãn được yêu sách, họ tự chấm dứt tuyệt thực vì lý do phong trào Mặt trận Bình dân Pháp đang lớn mạnh và có đường lối phù hợp với chủ trương của dân tộc bị trị. Nhờ đó, 30 người mãn hạn tù được Pháp trả về Việt Nam. Trên thực tế, đưa một tù An Nam mãn hạn trở về Việt Nam rất tốn kém vì phải đưa họ về Pháp, sau đó mới về Việt Nam, chi phí khoảng 1.000 Frans. Vì thế mà nhà cầm quyền Pháp khuyên tù nhân mãn hạn ở lại làm ăn, kiếm tiền tự mua vé tàu về nước. Dĩ nhiên không phải người tù nào cũng có thể kiếm được đủ tiền. Ngày 20-6-1937, ông Gaston Monnerville thuộc chính phủ Bình dân Pháp đã điều trần trước Quốc hội Pháp. Ông cho rằng: Việc lập nhà lao thuộc địa Guyane là việc làm với ba cái sai lầm. Một là, chẳng cải tạo được tù nhân. Hai là, biến thuộc địa thành nhà tù. Ba là, thanh danh nước Pháp bị ô uế. Mặt trận Bình dân yêu cầu bãi bỏ vĩnh viễn nhà lao Guyane. Năm 1938, chính phủ Daladier ký sắc lệnh đóng cửa toàn bộ nhà tù Guyane. Nhưng phải đến năm 1947, nhà tù ở đây mới hoàn toàn được xóa bỏ.
Sang năm 1939, số phận của tù nhân An Nam có những biến động. Sau đợt 30 tù nhân chính trị và tù thường phạm mãn hạn được chính phủ Bình dân Pháp cấp phương tiện cho về xứ Đông Dương, triều đình Huế và Hoàng gia Cao Miên cũng gửi thư yêu cầu chính phủ Pháp trả về nước những người đã mãn hạn tù. Hàng trăm tù nhân An Nam được trả tự do, nhưng không có phương tiện để trở về nước nên đành ở lại Guyane tìm kiếm việc làm để có tiền mua vé tàu. Do gặp thời buổi khó khăn, nên khá đông ở lại lấy vợ bản xứ và nhắc nhở nhau nơi xứ người nên cố gắng làm việc chăm chỉ, sống đàng hoàng, không làm ô danh dân tộc Việt.
Tháng 8-1945, De Gaulle lên nắm chính quyền ở Pháp, ký lệnh ân xá cho tất cả tù nhân ở Guyane và giúp phương tiện cho họ trở về đất nước. Lúc bấy giờ ở Việt Nam, Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám thành công. Vì thế, Guyane không có tù nhân An Nam nào được hưởng lệnh ân xá, chỉ những người mãn hạn tù mới được trả tự do, nhưng không cấp phương tiện về nước. Ngày 19-3-1946, chính phủ Pháp ra quyết định đặt Guyane là một tỉnh hải ngoại của Pháp. Đứng đầu là một toàn quyền với hai cơ quan đại hội đồng gồm 19 thành viên và hội đồng vùng gồm 34 thành viên. Guyane có một dân biểu tại Quốc hội và một thượng nghị sĩ tại Thượng viện Pháp. Nhà lao Inini được giải thể.
Năm 1955, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Khi quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, chính phủ Pháp đài thọ kinh phí cho các tù nhân Việt Nam ở Guyane hồi hương. Nhưng phần lớn tù nhân An Nam đã lập gia đình với người bản xứ, vì thế chỉ có một số hồi hương. Trong năm 1954 có một chuyến tàu hồi hương 51 người, trong chuyến đó có 7 người là nghĩa quân Yên Bái. Ngày 22-01-1954, tàu cập bến Sài Gòn. Từ năm 1947, tất cả các nhà tù trên đất liền Guyane đều đóng cửa ngưng hoạt động, chỉ còn một số nhà tù ở trên quần đảo Salut do còn phải giải quyết một số việc nên vẫn còn hoạt động. Những tù nhân An Nam và tù nhân các nước không có điều kiện về nước, ở lại định cư và xây dựng gia đình đều vào quốc tịch và trở thành công dân Pháp. Đến năm 1953 mới thật sự chấm dứt chế độ nhà tù ở Guyane. Năm 1957, tại Sài Gòn, tác giả Hoàng Văn Đào đã tiếp xúc với cựu tù nhân ở Guyane trở về và ghi lại theo lời kể của các nhân chứng về những người tù An Nam ở Guyane. Sau đó, ông cho xuất bản tập sách có tên Từ Yên Bái đến ngục thất Hỏa Lò, Côn Đảo, Guyane. Sách vừa phát hành đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm tịch thu, vì cho rằng đề cao Việt Nam Quốc dân đảng. May mắn có một nhà giáo ở Đà Nẵng còn lưu giữ cuốn sách. Tháng 4-2008, nhân báo Tuổi trẻ cho đăng một loạt bài phóng sự về nhà tù Guyane, ông đã cung cấp tài liệu này cho báo Tuổi trẻ, góp phần tư liệu để phổ biến. Nhà sưu tập Bùi Văn Quế (đồng tác giả bài viết này) cũng đang lưu giữ cuốn sách nói trên. Năm 1960, các cựu tù nhân An Nam định cư tại Guyane thành lập Hiệp hội Việt kiều. Ông Đồng Văn Khản – Chủ tịch Hội cho biết có khoảng 100 tù nhân Việt Nam ở lại Guyane lập gia đình, đời sống cũng tạm ổn. Cuối năm 1960, ông Khản trở về miền Bắc Việt Nam sinh sống với gia đình. Ông mất năm 1965, thọ 82 tuổi (ông bị đày sang Guyane từ năm 1931, lúc mới 48 tuổi).
Năm 1967, người tù vượt ngục người Pháp tên Henry Charrière kể về câu chuyện vượt ngục của mình được những người bạn tù Việt Nam giúp đỡ. Bản thảo được gửi về Pháp và in thành sách. Chỉ trong 2 năm đã bán được 2 triệu bản và được dịch ra 25 thứ tiếng với tựa đề Papillon. Năm 2005, kênh truyền hình Discovery Mỹ đã thực hiện một phóng sự dài 2 giờ đồng hồ về nhà tù Guyane. Trong câu chuyện về cuộc vượt ngục nổi tiếng của tù nhân người Pháp có sự giúp đỡ của các tù nhân Việt Nam. Đài truyền hình ARTE AFO và FRANCE 3 của Pháp cũng làm bộ phim tư liệu Les ombres du bagne của đạo diễn Patrick Barbéris và Tancrède Ramonet. Phim nói về những tù nhân Guyane: Charles Hut (Bỉ), René Bellenoit(Pháp), JASSEK Bason(Ba Lan) và Trần Khắc Mẫn(Việt Nam). Đến năm 2006, ông Trần Khắc Mẫn – người tù An Nam cuối cùng trong chuyến đi đày năm 1931 qua đời. Danh sách tù nhân An Nam hiện lưu giữ tại Nha Văn khố Aix-en-Province của Pháp.
Dấu tích nơi giam cầm những người tù An Nam ở khu Le Crique Anguille, bagnes des Annamites chỉ còn một nền gạch của một lán trại, hai dãy xà lim chuồng cọp rộng khoảng 1m. Trong một xà lim còn vết khắc của một tù nhân Casso An Nam với số tù 6780. Theo tài liệu lưu trữ ở Guyane, từ 1854 đến 1944, tổng cộng có đến 70.000 tù nhân bị lưu đày đến đây. Con số tù trốn và vượt ngục ước tính có khoảng 20.000 người. Hiện nay, kho lưu trữ có 6 hộp hồ sơ về người tù An Nam, mỗi hộp chứa khoảng 100 hồ sơ. Trong hộp hồ sơ này, bộ hồ sơ nào có gạch dở là hồ sơ của tù nhân đã chết khi còn trong trại giam. Như vậy, thông tin về những người tù An Nam ở Guyane vẫn còn khá khiêm tốn, cần có những công trình sưu tập, nghiên cứu quy mô hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam
2. Hoàng Văn Đào, Từ Yên Bái đến ngục thất Hỏa Lò, Côn Đảo, Guyane, Nxb. Sài Gòn mới, 1957.
3. Cao Xuân Hạo dịch, Papillon – Người tù khổ sai, Nxb. Hội Nhà văn, 2006.
4. Danh Đức, “Con cháu các tù nhân biệt xứ”, Báo Tuổi trẻ ngày 25, 28, 29-4 và 08-5-2008.
5. Nguyễn Phúc Nghiệp, Một lòng đền nợ nước non – Những người Việt ái quốc bị đày ở Guyane, Nxb. Trẻ, 2008.
6. http:bernard.hesward free fr nantesvoiles voiliers 18html:Forcats Internet. 7. Các website: The free encyclopedia – History of French Guiana, Le Bagnes des Annamites, French Guyane Colonial prison, speedylook.com.