LTS. Trong tạp chí Xưa & Nay, số 8 năm 1995, ông Đào Hùng đã giới thiệu về chế độ hoạn quan chủ yếu ở Trung Hoa, một nước có ảnh hưởng rất sâu sắc vào các thể chế xã hội Việt Nam. Nay chúng tôi xin giới thiệu bài viết về hoạn quan của bà Nguyễn Thị Chân Quỳnh từng làm việc tại ban Việt ngữ của đài BBC (Anh quốc) và là tiến sĩ giảng dạy tại Đại học Sorbonne (Paris IV) rút từ một cuốn sách biên khảo có nhan đề Lối xưa xe ngựa…, xuất bản năm 1995.
Sử sách của ta chỉ chép tỉ mỉ từ đời Lý, trước đó nước ta có hoạn quan hay không thì không rõ, nhưng xét ra có lẽ chế độ hoạn quan của ta bắt chước Trung Quốc.
Theo các sách Chu lễ và Kinh Lễ thì đời nhà Chu, các hoạn quan chỉ giữ việc quét dọn, canh phòng, hầu hạ trong cung cấm, thường được gọi là Tư nhân hay Yêm doãn (Yêm: Thiến. Doãn: Trưởng quan), sau mới đổi ra hoạn quan nghe tôn quý hơn (Ở Việt Nam thường gọi là nội thị, quan thị, nội giám, ông giám, ông bõ).
Tuy tổng số có thể lên tới 3.000 người, nhưng chỉ một số ít được giữ việc chuyển đạt mệnh lệnh của vua đến các phi tần. Những người này đều có tên khắc chữ vàng trên thẻ ngọc. Mỗi khi vua muốn triệu ai thì chọn thẻ giao cho viên nội giám giữ việc ấy để đem đèn đến treo trước cửa người cung phi được chọn. Cô này thấy hiệu bèn trang điểm rồi trút bỏ xiêm y, viên nội giám dùng một chiếc áo choàng rộng màu đỏ bọc lại, rồi ẵm đến tận cung vua. Sau đó, viên quan này phải ghi rõ ngày giờ vào sổ để nếu sau có sinh con trai thì đó là bằng chứng. Theo ông Hoàng Xuân Hãn thì từ cuối đời Hán, hoạn quan mới tiếm quyền trong triều, nắm giữ cả văn ban lẫn võ ban, kết giao với các đại thần, gây vây cánh,…
Năm 1653, vua thấy hoạn quan lũng đoạn triều chính thái quá, bèn ra sắc lệnh không cho những người này làm quan quá tứ phẩm, cấm dự bàn quốc sự, cấm không được giao hảo với các đại thần, nếu không sẽ bị họa phân thây. Tuy nhiên, trên thực tế, đạo luật này ít khi được áp dụng*.
Chức vụ của hoạn quan
Trên nguyên tắc, hoạn quan chỉ giữ những công việc hầu hạ trong cung. Michel Đức Chaigneau kể khi lên 8 tuổi được triệu vào cung gặp hoàng hậu và các phi tần của vua Gia Long, do một viên hoạn quan dẫn đường. Viên quan mặc một chiếc áo ngắn màu lam, quần lụa trắng, chít khăn rộng bản, cung kính đi sau một quãng chứ không dám đi ngang hàng. Lần thứ nhì, khoảng hai chục tuổi, sau khi ở Pháp trở lại Việt Nam, Michel Đức liếc thấy trong phòng có một bọn “đầy tớ” chừng 15-20 tuổi, đứng ở góc phòng, tựa lưng vào tường đợi lệnh. Hễ vua ra lệnh thì lập tức quỳ dâng điếu thuốc lá đã châm sẵn và trước khi dâng phải hút thử vài hơi…
Theo S. Baron, chúa Trịnh rất ưa hoạn quan. Những người này sau khi phục vụ độ 8 năm trong triều liền được cất nhắc ra giữ những chức quan trọng, có khi lấn át cả các đại thần có thực tài.
Riêng chúa Trịnh Khải thì sự liên hệ với quan hoạn không phải là ít. Nguyên mẹ Trịnh Khải là Dương Thị Ngọc Hoan không được Trịnh Sâm ưa. Một hôm, nằm mơ thấy thần nhân cho một tấm đoạn có vẽ đầu rồng, tỉnh dậy kể lại cho hoạn quan Khê Trung Hầu Chu Xuân Đán nghe. Hầu cho là điềm sinh quý tử, có ý giúp đỡ. Khi Sâm cho đòi Ngọc Khoan (cũng có chỗ chép là Ngọc Hoàn) vào chầu, Hầu giả cách nghe nhầm đưa Ngọc Hoan tới. Sâm không nỡ đuổi về, sau trách mắng thì Hầu đem chuyện kể lại. Sâm nín lặng. Sau đó, Ngọc Hoan có thai sinh ra Trịnh Khải nhưng Sâm vẫn không ưa, trù trừ không muốn lập làm thế tử, chỉ định cho hoạn quan Nguyễn Phương Đỉnh làm Bảo phó… Khi Trịnh Khải mưu cướp ngôi Trịnh Cán, Sâm sai Ngô Thì Nhậm cùng bọn hoạn quan Ngạn Trung Hầu, Đường Trung Hầu, Án Trung Hầu cùng tra án[i].
Người ta trách hoạn quan chỉ nhờ xiểm nịnh được lòng vua chúa, rồi nắm quyền chính, tác oai tác phúc… song ta đã thấy Lương Đăng làm quan to nhưng không hề tham dự quốc sự, gây bè đảng làm mưa làm gió, mà chỉ hoàn tất việc quy định mũ áo và lễ nhạc, song vẫn bị các đại thần chê trách.
Trong Vũ trung tùy bút có Tả Chí Hầu cũng là hoạn quan có thực tài, hiểu thuật bóp gân xương, biết hát xướng, xem tướng, vẽ truyền thần giỏi.
Những hoạn quan tiến cống cho Trung Quốc có một số được sử sách nhắc đến.
Minh Thái Tổ bắt ta cống nộp sư sãi, gái đẹp biếm đấm bóp và hòa giả (hoạn quan), sau thả sư và gái đẹp về, chỉ giữ lại hoạn quan và đãi rất hậu. Năm 1405, Minh Thành Tổ mưu đồ xâm lăng, sai bọn hoạn quan Nguyễn Toán, Nguyễn Trung, Từ Cá, Ngô Tín đi sứ, dò xét địa hình nước ta. Bọn này dặn họ hàng hễ quân Minh tràn sang thì dựng cờ biên rõ là thân thuộc của nội quan nào thì sẽ thoát nạn. Hồ Hán Thương biết chuyện, sai giết hết thân thuộc bọn Nguyễn Toán[ii].
Tuy nhiên, những người bị tiến cống cho Trung Quốc không phải toàn bọn bán nước lập công, mà còn có những người có biệt tài như Trần Vũ và Nguyễn An.
Minh sử chép rằng niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ra lệnh lùng bắt những văn nhân Giao Chỉ cất nhắc cho giữ chức tri huyện hay tri phủ; lại tuyển bọn trung quan (hoạn quan), lấy người ngay thẳng, trung hậu, mẫn cán, thông suốt cho hầu nội cấm sảnh. Trần Vũ được tuyển vào hầu Tuyên Công, thăng chức Thái giám, sau cho đổi tên thành Vương Ngọc Cận, đi theo vua đánh Cao Hú (tức con vua Minh Thành Tổ làm phản), có công to được ban đai ngọc, yên vàng, ngựa tốt, vàng lụa,… lại đúc bốn quả ấn vàng khắc những chữ “Trung can nghĩa đảm” (Lá gan trung thành, quả mật nghĩa khí), “Kim điêu quý khách” (Quý khách đội mũ điêu vàng, tức mũ hoạn quan có con ve bằng vàng), “Trung thành tự lệ” (Tự mài dũa lòng trung), “Tâm tích song thanh” (Bụng dạ và hình tích đều trong sáng).
Theo Hoàng Minh thông ký có Nguyễn An trải năm đời vua Minh (Thái Tông, Nhân Tông, Tuyên Tông, Anh Tông và Cảnh Tông) là người giản dị, khắc khổ, cứng rắn, liêm khiết, giỏi về mưu mẹo, tính toán, rất sở trường những công việc xây dựng. Việc tu tạo thành Bắc Kinh 9 cửa, 2 cung, 3 điện, 5 phủ, công đường, nha môn 6 bộ và các trường xưởng, nhà trạm, An đều thân hành xếp đặt, tỏ ra rất có công lao. Các tơ tào trong bộ Công chỉ việc theo kế hoạch của An mà làm. Bình sinh được vua ban cho thứ gì đều đem nộp lại kho công không sót một ly[iii].
Thời nhà Nguyễn, vua Minh Mệnh thấy các hoạn quan đời trước chuyên quyền, lũng đoạn triều chính (có người nói vì vua ghét Lê Văn Duyệt), nên năm 1836 hạ lệnh từ nay hoạn quan không được giữ những chức phẩm như các quan đại thần, làm quan cũng không được quá tứ phẩm. Sắc lệnh này được khắc bia đá để trước Quốc Tử Giám, đến năm 1918 vẫn còn ở cạnh Văn Miếu.
Vua lại đặt ra những chức tước riêng biệt dành cho hoạn quan (xem bảng A ở cuối bài). Ba hạng trên có quyền xin chức nhiêu phụ cho cha và chức miễn nhiêu cho anh em hay cháu trai, hạng bốn và năm chỉ được xin miễn nhiêu.
Vua Thành Thái không ưa hoạn quan nên thay thế bằng cung nữ. Khi vua ngự thiện (ăn) thì đầu bếp dâng mỗi người một món, đưa cho thị vệ đem đến cho nội giám, những người này lại chuyển giao cho cung nữ quỳ dâng[iv].
Phẩm phục
Đời Trần: Sách Toàn thư chỉ chép hoạn quan đời Trần mặc áo xanh và từ năm 1306, dùng quần hai ống chứ không dùng xiêm nữa.
Trong An Nam chí lược (tr.222), Lê Tắc viết cặn kẽ hơn: Các nội quan thượng phẩm đội mũ dương thường, đính ong bướm vàng, mặc phẩm phục. Bình thường thì đội khăn nhung màu tía xen màu biếc, làm sáu tua kết sau khăn, đai thắt ngang để tỏ vẻ quan quý.
Hạng trung phẩm mũ áo, sắc chế hơi giảm. Thường phục thì khăn kết tua màu tía.
Hạ phẩm đội mũ dương thường tía, áo tía, khăn ngày thường có tua đen, dát ngọc, vàng, đồi mồi.
Không dùng hốt
Chắp tay lạy vua.
Nhà Lê: Quy định y phục hoạn quan rất rõ. Theo Lê triều chiếu lịnh thiện chính thì các chức tổng thái giám, đô thái giám, quản đốc ty nội gián, tước quận công ăn mặc như sau:
– Vào chầu vua đội mũ cánh chuồn, mặc áo màu hồng, bổ tử thêu hổ báo (như các hoàng tử, vương tử tước quận công), đai dát đồi mồi bịt bạc, chân đi hia tất.
– Vào chầu phủ chúa đội mũ ô sa[v], áo lam có vạch che sau, dây lưng kép dát ngọc.
Được đem theo hai người hầu.
– Khi đi đường khăn chít một, võng ba đòn sơn đen, yên ngựa sơn tía thếp thau.
Đi ra ngoài thành thêm một lọng màu xanh, vẽ hoa xanh có ngù rủ.
– Áo mặc thường, bằng gấm vóc các màu, hòm áo sơn son thếp vàng một vạch, hòm mữ sơn đen thếp chỉ vàng.
Cấm không được vẽ rồng, phượng, kỳ lân.
– Mâm, án thư bằng tre đan, thếp chỉ bạc.
Bát đĩa Tàu bịt thau.
Thời nhà Nguyễn: Theo sắc lệnh của vua Minh Mệnh thì mũ áo hoạn quan như sau:
– Áo màu lục cho các quan cao cấp, màu lam cho những người chức thấp, bổ tử màu đỏ thêu hoa xanh lục. Các thái giám thời xưa đeo một vòng lụa trắng rủ xuống hai bên ngực đến tận thắt lưng, sau này chỉ đeo một thẻ bài ngà khắc rõ chức phận.
– Mũ thái giám bằng phẳng ở trên đỉnh và hình bầu dục (khác với mũ các quan triều hình tròn và nóc khum khum), có dát vàng bạc theo chức tước và đính một quả bông.
Theo Hậu Hán chí, thời xưa mũ hoạn quan có tua vàng điểm một con ve sầu và một cái đuôi chuột, ngụ ý rằng ve sầu thanh khiết chỉ sống toàn bằng sương sớm, còn chuột thì có thể len lỏi vào tất cả những chỗ rất kín đáo trong thâm cung.
Viên hoạn quan mà Crawfurd đã gặp năm 1822 (có lẽ là Lê Văn Duyệt?), tuy giữ chức governor (tổng trấn?), nhưng ăn mặc rất đơn giản: Áo lụa trắng trơn và khăn nhiễu cũng màu trắng.
Đời sống
Hoạn quan có hai loại:
– Một loại sinh ra đã có khuyết tật hay bị tai nạn, như chó cắn mà thành tật. Người xưa tin rằng những người này có số làm quan to.
– Loại thứ nhì tự hoạn hay do cha mẹ đem con ra thiến.
Hạng thứ nhất, khi đứa trẻ sinh ra thấy có tật, thì gia đình hay xóm làng liền khai trình xin cho lớn lên được sung chức nội thị. Khoảng 10 tuổi, đứa trẻ được tiến cung, giao các hoạn quan giả huấn luyện công việc chầu hầu trong cung.
Hạng thứ nhì thì từ triều Lý đã có lệnh nghiêm cấm: Năm 1162, xuống chiếu kẻ nào tự thiến xử 80 trượng, thích 23 chữ vào mặt.
Quốc triều hình luật thời Lê cũng chép: “Ai tự hoạn xử tội lưu, ai thiến hộ hoặc chứa chấp giảm tội một bậc, xã quan không phát giác xử tội đồ (giam cầm làm khổ sai)[vi].
Sở dĩ có lệnh nghiêm cấm như thế vì hoạn quan có thể giữ những chức vụ trọng yếu, có nhiều quyền uy, giúp đỡ gia đình hay xóm làng được, nên nhiều người ham. Lê triều chiếu lịnh thiện chính cho biết các nội giám xung chức Thái bảo, Thiếu bảo, Thái sư, Thiếu sư, Thái phó, Thiếu phó với tước Quận công thì tám người con được phong là Quan viên tử, bảy người cháu được phong là Quan viên tôn[vii].
Đọc đến đây hẳn ai cũng lạ: Đã là hoạn quan tại sao lại có con? Hiển nhiên trường hợp này xảy ra đủ nhiều để có cả một đạo luật dành cho con cháu hoạn quan. Cương mục chẳng hạn chép năm 1480, khi Nghi Dân nổi loạn, nội quan Thị hậu Phó chưởng Đào Biểu tử tiết, gia sản bị sung công. Khi Thánh Tông lên ngôi, truy tặng Đào Biểu một tư, ban cho năm mẫu tư điền để cúng tế, lại trả điền sản bị tịch thu trước cho vợ con[viii].
Có lẽ những người này, như Lý Thường Kiệt, đã lấy vợ trước khi tự hoạn, hoặc cũng muốn có gia đình riêng, lấy một cung nữ đã bị thải hay lấy con nhà hàng phố rồi nuôi con nuôi. A. Laborde kể chuyện ở Huế xưa có một thiếu phụ lấy chồng hoạn quan nhưng ngây thơ không hiểu chồng mình bất bình thường, mãi khi chồng chết, đi cải giá mới rõ và đem chuyện mình tâm sự với một vài người bạn.
Cũng theo Laborde, có một viên Đội Thị vệ bị án tử hình vì ăn ở với một hoạn quan và… sinh ra một đứa con!
Chúa Trịnh dùng tới 4-500 hoạn quan, nhưng đến đời vua Thành Thái nhà Nguyễn, vì không ưa hoạn quan nên số người hầu cận vua trước có 15, sau chỉ còn 9. Đến 1918 lại có lệnh cấm bổ dụng thêm hoạn quan mới, những người cũ cho tiếp tục giữ chức.
Tướng mạo và tính tình
Khi nói đến hoạn quan, người ta thường nhắc đến cái cằm không râu, dáng điệu ẻo lả như phụ nữ và tính tình khó thương, ngạo mạn, vô lễ,… Dường như để bù lại những mặc cảm tự ti, sau đây là hoạn quan nhìn qua con mắt các chứng nhân Việt cũng như ngoại quốc:
– Năm 1778, Chapman, một người do Công ty Ấn Độ của Anh gửi sang đã gặp ở Huế một viên hoạn quan giữ chức Quan Tam Quon, quyền uy vượt cả viên Viceroy (Tổng trấn?). Viên này có tính hay hoạnh họe, khinh người. Trước hết bắt Chapman phải đứng chờ ngoài cổng cả nửa giờ mới cho vào nhà. Vào rồi cũng không thèm ra tiếp ngay, chỉ ở trong nhà hỏi vọng ra mấy câu, mãi sau mới cho cuốn rèm lên và Chapman thấy dưới ánh nến vàng vọt một đống thịt lù lù, dị dạng, ngồi trong một chiếc ghế tựa như chiếc ngai, người có vẻ thấp lùn, má xệ xuống,… Khi Chapman phàn nàn những người dưới quyền mình bị ngược đãi, viên Tổng trấn xin lỗi rằng ông không có quyền hành gì, mọi sự cứ điều đình thẳng với viên hoạn quan. Viên này tỏ ra rất vô lễ, chửi rủa và còn sai đem tặng vật của Chapman, một chiếc đồng hồ, ra trả lại nói rằng đồng hồ đã vỡ, trở nên vô dụng[ix].
– Ngày 02-9-1822, Crawfurd đã gặp một hoạn quan giữ chức Gonervor of Saigon (có lẽ là Lê Văn Duyệt?) và tả cuộc gặp khá tường tận: “Giữa phòng, trên một cái sập cao hơn thường lệ, là viên Tổng trấn (?) đang ngồi chễm chệ. Chúng tôi tiến lên cúi chào. Ông ta cứ ngồi yên không đáp lễ. Sau đó, người ta chỉ chúng tôi ngồi xuống dãy ghế bên phải ông ta, ghế bên trái dành cho viên quan cao cấp bậc nhì trong phòng. Những người khác đứng đằng sau hoặc ngồi trên một chiếc sập khác. Viên Tổng trấn già là một hoạn quan, nhưng nếu không biết trước thì không thể đoán ra. Tuy cằm ông ta không có râu và giọng nói yếu như đàn bà, nhưng chưa tới mức khiến người ta phải nghi ngờ. Ông ta có vẻ không quan tâm mấy đến y phục, chỉ mặc một áo lụa trắng trơn và đội một chiếc khăn nhiễu rộng bản cũng màu trắng”. Crawfurd đem lễ vật ra tặng nhưng viên Tổng trấn từ chối, nói rằng hai bên đang ở thế điều đình, tặng lễ vật bây giờ quá sớm, ông không thể nhận. Crawfurd rất phục tư cách viên Tổng trấn khi đem ông ta ra so sánh với các quan chức người Xiêm. Nhưng vừa về đến nhà thì thấy Tổng trấn sai người đem thực phẩm tới tặng: Trâu, dê, lợn, gạo,… Và nhân thể cho biết lúc nãy quan Tổng trấn không tiện nhận quà trước mắt công chúng, nhưng ngài rất vui lòng nhận mấy khẩu súng và cái ống viễn kính mà Crawfurd định biếu[x].
– Phạm Khắc Hòe trong Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc kể rằng tháng 8-1945, khi ông đi chào bà Từ Cung để ra Hà Nội, thì đột nhiên một viên Thái giám già chạy đến trước mặt sụp lạy. Viên này mặt xanh như tàu lá, đầu bạc, cằm không râu, má nhăn nheo, miệng xệ xuống, mắt rưng rưng, cất giọng khàn khàn hỏi về số phận của mình sẽ được định đoạt ra sao? Có được lĩnh lương tháng 8 hay không? Sau này sẽ làm gì?,… Hỏi ra mới biết viên thái giám này do cha mẹ thiến từ năm 12 tuổi, vào cung từ đời vua Thành Thái đến nay đã gần 50 năm. Khi mới vào cung được học Tứ thư, Ngũ kinh, tập làm việc vặt, đến 20 tuổi sung chức Thừa biện Thái giám; năm 1945 giữ chức Phụng nghi Thái giám. Nhiệm vụ chính là chuyển đạt mệnh lệnh của vua tới các phi tần và khi vua ngự tới bà nào thì ghi chép ngày giờ cho đúng để phòng việc tranh chấp về sau. Từ khi vua Khải Định mất thì không phải làm việc này nữa, chỉ còn nhiệm vụ chầu hầu bà Từ Cung, giúp đỡ các phi tần trong việc cúng bái, tu hành và liên lạc với bên ngoài.
– Năm 1958, cụ Vương Hồng Sển đi thăm lăng Diên Thọ (Gia Long), nhằm ngày lễ Thanh minh, tình cờ được chứng kiến một buổi tế lễ và liếc thấy nơi gian nhà sau chỗ tế có một nhóm quan thị “rất đông”, mặc áo màu lam, đang đứng chờ tế lễ xong thì chia phần, có người đã già sụm, kẻ còn sồn sồn, người nào cằm cũng nhẵn thín không có một sợi râu.
Hoạn quan không phải người nào cũng xấu, ẻo lả. Trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ cho biết Tả Chí Hầu, nội thị thời Trịnh Khương (Giang) “tướng mạo hùng vĩ, phảng phất giống Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc”. A. Laborde đã chụp được ảnh một viên hoạn quan 62 tuổi, một trong những người có địa vị quan trọng hồi đầu thế kỷ XX, trông coi một cái lăng, giữ gìn đồ thờ cúng và phát lương cho 9 người cung nhân già ở đó. Tiếc rằng Laborde không cho in ảnh viên hoạn quan mà chỉ cho biết mặt mũi viên này giống mặt bà già, vú cũng xệ xuống ngực như bà già.
* Chúng tôi bỏ đoạn tác giả giới thiệu về các hoạn quan danh tiếng của nước ta: Đời Lý có Lý Nhân Nghĩa, Lý Thường Kiệt; đời Trần có Phan Ứng Mộng; đời Lê có Lương Đăng, Hoàng Công Phụ, Phạm Huy Đỉnh, Hoàng Ngũ Phúc; đời Nguyễn có Lê Văn Duyệt…
[i] Hoàng Lê nhất thống chí, tr.17.
[ii] Toàn thư, II, tr.216.
[iii] Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, tr.254-56.
[iv] P. Pasquier, L’Annam d’autrefois, tr.81.
[v] Mũ ô sa kết bằng tóc có thêu chữ nổi màu đen (Lê triều chiếu lịnh thiện chính, tr.199).
[vi] Quốc triều hình luật, tr.119.
[vii] Lê triều chiếu lịnh thiện chính, tr.29.
[viii] Cương mục, X, tr.63-4.
[ix] A. Lamb, tr.112-18.
[x] Crawfurd, tr.216-17.