Sài Gòn 30-4-1975

Börries Gallasch*

Tạp chí Xưa và Nay (trích sách "Thành phố Hồ chí Minh - Giờ khắc số 0 - Những phóng sự về kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm"))

Cả Sài Gòn đang có mặt tại đây. Người dân đứng nhìn một viên trung úy tìm cách ám sát tổng thống mình. Ông bay thấp qua thành phố tấn công 3 lần, ném 2 quả bom vào dinh tổng thống. Tất cả đã trôi qua. Cả suy đoán lẫn kịch tính.

Trong khi một cột khói nhỏ bốc cao phía sau dinh tổng thống và tan dần thì dòng người cũng thoát khỏi cơn sốc. Đây là một tín hiệu đã chờ đợi từ nhiều tuần qua, có lúc tưởng chừng nó không xảy ra, và bây giờ nó đã đến.

Ngày 8-4, 8 giờ sáng, binh lính cầm lấy vũ khí, phóng viên nhiếp ảnh cầm lấy máy, phóng viên nhà báo vội vàng chạy tới dinh tổng thống. Một tí gì ở thái độ đã trôi qua. Nó còn lại sau mấy tuần rút lui và tháo chạy tán loạn, cái vẻ yên hùng bên ngoài đã bị xóa đi – tìm nơi trú ẩn trước khi xe tăng đến. Tại ngã tư Hai Bà Trưng – Nguyễn Du, một viên cảnh sát vứt bỏ bộ quân phục, trong người chỉ có chiếc áo lót và chiếc quần, chạy lấy chiếc xe đạp của mình. Đối với anh, chiến tranh đã chấm dứt, chạy kịp về nhà trước khi nó xảy ra. Nhiều người tụ tập tại chợ trung tâm, đường phố bị ùn tắc, trên lề đường những người buôn bán gom vũ khí của họ lại, loa phóng thanh thông báo lệnh giới nghiêm 24 tiếng đồng hồ.

Thật khoan khoái, dễ chịu. Không có ai vui mừng, càng ít người có lý do vui mừng. Thiệu vẫn sống với “ơn Chúa” như ông ta đã thông báo cho người dân thông qua đài phát thanh và đài truyền hình. Tiếng nói đã thay đổi. Hy vọng thay Thiệu dù bằng cách nào, càng bế tắc. Đi với Thiệu đến bờ vực thẳm: mơ tưởng chiến thắng cuối cùng trong căn hầm của người chỉ huy, trên đường phố thì hoang mang.

Trong khi vị nguyên thủ chạy ra nước ngoài (3 chiếc trực thăng đậu trên sân của dinh tổng thống), ông lại lên án đồng bào mình kiên nhẫn vô điều kiện. Từ chối tham dự hội nghị ở nước ngoài, các nhà khoa học và viên chức cao cấp của chính phủ không được phép xuất cảnh ra nước ngoài nữa, nói chung cấm đi học ở các trường đại học nước ngoài. Các trường học đều đóng cửa.

Cuộc chiến tranh đang tiến gần. Hỏa lực pháo binh ngày càng cận kề thành phố. Tôi đi trên con đường tối tăm đến đài điện tín, qua những đường phố vắng tanh. Tiếng rền vang đơn điệu của những khẩu pháo 130mm đồng hành cùng cánh nhà báo chúng tôi. “Cuộc tấn công vào Sài Gòn đã bắt đầu”, thượng tá Achim Weste, tùy viên quân sự Đại sứ quan Liên bang Đức đã nói. Sài Gòn đã trở nên thành phố chiến trận.

Nhân dân biết điều đó. Huế ở rất xa. Thiệt hại hoa màu ở Đà Lạt đã làm cho nhiều người đau xót. Nhưng Xuân Lộc và Thuận An lại rất gần. Nếu quốc lộ số 4 mất đi thì Sài Gòn bị cắt đứt khỏi vựa lúa đồng bằng sông Cửu Long.

Tiếp theo sự sợ hãi của tuần qua là sự lãnh đạm. Không còn có thể động viên lực lượng nào để có thể bắt đầu lớn hơn cho một sự thử thách cuối cùng. Trong lúc đó những người dân Sài Gòn đang có những chuẩn bị như quen với thời chiến tranh. Ông Huỳnh cư ngụ trong một căn nhà nhỏ sau lưng dinh Độc Lập đưa cho tôi một lá bùa khắc gỗ nhờ chuyển cho đứa con gái đang sống tại Đức. Vợ anh ta làm mấy chiếc vòng bằng kim loại gửi cho bốn đứa cháu ngoại để chúng đeo trên cổ. “Năm 1968 tôi đã làm cái này, năm 1972 tôi làm lại lần thứ ba. Tôi làm xong rồi quăng nó đi. Tôi là một người rất lạc quan”.

Rất nhiều người đều lạc quan, kể cả anh Thomas J. Garrity từ Los Angeles đã lắp ráp nhà máy cơ khí “Emerald Industries”, sau một năm rưỡi đã đi vào hoạt động trước đây hai tháng, có một trăm hai mươi công nhân. “Tất cả tiền của tôi đã bỏ vào đấy. Bây giờ tôi không thể sống được. Thật là đáng nguyền rủa”.

Nguyền rủa nó. Trong khi những người tháo chạy bị tập trung trên boong tàu Mỹ và Nam Việt Nam ngày đêm không có thức ăn uống, đa số họ bị đưa đến nhà giam Phú Quốc. Chế độ Sài Gòn nặn lên bức tượng khổng lồ dành cho lính Mỹ. Bức tượng đó được dựng lên trên đại lộ Cách mạng gần sân bay Tân Sơn Nhất một năm nay, chi phí khoảng hai trăm triệu Piaster và sẽ khánh thành trong những ngày này. Trong lúc đó chi phí xây bức tượng tăng lên gấp đôi – trên bốn trăm triệu, nó sẽ còn kéo dài một năm nữa cho đến khi khánh thành, sẽ có sự hiện diện của Thiệu, trên mặt tượng đài còn có dòng chữ “Để tưởng nhớ những người Mỹ đã ngã xuống tại Việt Nam để bảo vệ quyền con người”.

Nguyễn Quang Vinh, một trong những công nhân xây dựng bất đắc dĩ biết công việc xây dựng con quái vật này sẽ phải đình chỉ. “Khi nào những người bên kia đến đây, điều đó chế độ Sài Gòn cũng biết”.

Khi nào những người bên kia đến đây…

Anh Trần Hồ Lin tài xế xe lam làm việc ở cảng, bốn mươi tám tuổi, gầy gò, hốc hác, tay chân khẳng khiu, có mười đứa con, nghĩ rằng Cộng sản đến là chết, kết liễu cuộc đời. Đa số người ở Sài Gòn đều cảm thấy như vậy – là ảnh hưởng của sự tuyên truyền ba mươi năm qua ăn sâu vào đầu óc họ.

Vì vậy với cuộc đảo chính bất thành ngày 8-4, một cuộc đảo chính hình như là một vụ ám sát, với hành động đơn lẻ của viên sĩ quan phi công trẻ tuổi, với việc thay thế Thiệu sau đó hai tuần, những ngày cuối cùng nhất của Sài Gòn đã bắt đầu, khả năng cuối cùng về một trận đánh tổng lực, một sự lắp ghép Nam Việt Nam còn lại dưới quyền lãnh đạo của lực lượng thứ ba như là một giải pháp quá độ theo mô hình của Lào. Tất cả đã trôi qua. Ngay cả những người lạc quan chuyên nghiệp, những người hô hào, những người mù quáng cũng nhận rõ trong những ngày tháng 4 này rằng điều không có thể sẽ trở thành điều chắc chắn: Chẳng bao lâu nữa Cộng sản sẽ đến.

Trong những ngày hè nóng bỏng này bùng phát nỗi thống khổ của nhân dân đã phải chịu đựng đau khổ nhiều năm, kể cả ở Sài Gòn. Những người thành thị mất hết vũ khí cuối cùng của mình, mất tiếng cười của mình mà đằng sau tiếng cười đó ẩn giấu sự bất lực của những người khốn khó, sự bối rối và cảm giác hổ thẹn của mình. Nụ cười tự nhiên sáng sủa làm cho người mới đến càng thêm bối rối – nếu nước mắt và sự thảm hại, những dấu hiệu của đau buồn và tuyệt vọng đang chờ đợi người ta, thì sự hồ hởi bất chợt càng làm cho người quan sát không tìm được lời nói nào.

Sau khi bán rẻ vũ khí tự vệ cuối cùng này thì độ sâu của sự chia rẽ càng rõ hơn, sự chia rẽ thấm qua dân tộc Việt Nam. Người miền Bắc và miền Nam sau giờ khắc số không sẽ hòa hợp với nhau như thế nào? Họ sau khi kết thúc chiến tranh mà một bên cho là chiến thắng bên kia cho là chiến bại – họ sẽ tìm đến nhau như thế nào mà không phải trải qua điều mà trong các cuộc chiến tranh đều tỏ ra là lôgic và cần thiết: tính nợ, trả thù, tòa án xử những người có tội.

Khó có ai tính trước được như tờ báo quân đội Mỹ “The Arms and Strips” đã viết: “Ít nhất có một triệu người Nam Việt Nam bị Cộng sản giết chết”.

Những người chạy trốn trước cuộc tiến công của binh sĩ Mặt trận Giải phóng từ gần hai tháng nay lại tin vào lời tuyên truyền ghê sợ. Sài Gòn đóng cửa đối với họ. Ngay tại đồng bằng, nơi đất đai phì nhiêu, những người di tản tuyệt vọng, nửa đói khát cũng không thể tìm được sự yên ổn. Họ bị chuyên chở bằng phương tiện vận tải quân đội, đưa xuống phía Nam, đi tàu ra đảo Phú Quốc.

Một địa điểm lý tưởng đối với người tù, đối với một trại giam, một trại tập trung 40.000 Việt Cộng và lính Bắc Việt. Cho đến khi được thả ra sau hiệp định Paris, họ bị giam giữ như những con vật trong những căn lều bẩn thỉu, sau ba lớp rào kẽm gai, dưới ánh nắng mặt trời chói chang. Đây cũng là một nơi lý tưởng đối với việc định cư những người chạy trốn từ phía Bắc (Nam Việt Nam). Tất cả đây những gì chính quyền cần để tách vỏ ra khỏi hạt lúa. Thành lập một doanh trại quân đội mà ở đây không ai có thể đào ngũ, một trại lính có thể nhìn bao quát, tạm thời không sử dụng, không có khán giả, nếu có phải dùng biện pháp cứng rắn đi nữa.

Tôi cùng 4 nhà báo đi trên máy bay chính phủ đến thăm đảo, tại đây bộ trưởng di dân Dr. Đán giới thiệu cho chúng tôi nghe về công tác “tái định cư của chính phủ”, và cả về “viện trợ nhân đạo của chính phủ các nước bạn”, cụ thể là của người Đức. Cũng vì lý do đó, đại sứ Đức ở Sài Gòn, tiến sĩ Heinz Dröge, cùng đi máy bay ra đây.

Khi đoàn xe jeep chở các tướng tá, bộ trưởng và đại sứ cùng một thành viên Ủy ban về người tỵ nạn của LHQ sau mấy phút đi đến bờ, nơi những người di tản vừa cập bến, kéo sát vào bờ, thì các nhà báo lùi lại phía sau.

Chúng tôi nhìn thấy những điều mà không nên nhìn xem: phía sau đuôi máy bay, cách xa tầm nhìn của các vị quan khách, có 30 binh sĩ trang bị vũ khí hạng nặng bao vây một nhóm 20 binh lính trần trụi, trói ngược hai tay sau lưng, đang chịu đựng một cuộc hỏi cung.

Họ là những con sâu bọ, những binh lính chạy trốn, hay kẻ phá hoại Cộng sản?

Người bị kẻ tra khảo la mắng và đánh vào đầu bằng một cái gậy và bị chà đạp – anh ấy hình như chỉ có một cái lỗi là: trên lưng anh có một hình xăm trông ghê tởm, đồi trụy, mà sĩ quan hỏi cung cho rằng đồi trụy và nguy hiểm. Binh lính thừa nhận những gì xảy ra sau này với nạn nhân của họ: họ bị bắn bởi vì họ không thừa nhận. Và cái gì họ không thừa nhận?

Sài Gòn trong những ngày này, một thành phố trước sự thu nạp. Khắp nơi đầy người, họ dự kiến chờ ngày bùng nổ hoặc chuẩn bị cho ngày thu nạp vào. Sự sợ hãi quá sâu lắng rằng chạy trốn đến một nước khác mà người ta chưa biết dân tình ở đó (Mỹ) ra sao, còn nghĩ những điều không hay về họ, có lẽ còn chịu đựng được hơn là sống chung với người cùng dân tộc, với “những người bên kia, người Cộng sản từ miền Bắc vào”.

Tại Thảo cầm viên Sài Gòn, các gia đình bàn bạc với nhau, ở đây không có người ngoại quốc nào đang ở trong vườn cây này, nơi có bảo tàng lịch sử, có hàng đống cổ vật có giá trị do người Pháp trao tặng lần cuối vào những năm 40 và lâu nay không có ai chú ý bảo quản.

Một nhân viên bảo vệ cùng gia đình ngồi xổm trước bộ long bào của các ông vua, nấu canh cho bữa ăn tối trên một bếp lửa. Làn khói xanh bay lên thành những dòng li ti xung quanh tượng Phật cạnh cổng ra vào.

Trước các chuồng trại có nhiều dòng họ gia tộc, người ta lắng nghe các bà nói chuyện, một số người khóc lóc, trẻ em đứng ngây người xung quanh. Khắp nơi có quân nhân, binh sĩ với lưỡi lê tuốt trần, xe chở pháo cao xạ. Ở đây người ta canh giữ con người, chứ không phải các con thú, mà bây giờ chúng cũng không còn là bao. Còn những con cọp, sư tử đều đói meo, vì những người trông coi – tham nhũng – đã tuồn thịt ra chợ. Số còn lại sống nhờ rau cỏ, đến lúc nào đó đến lượt chú voi, chú khỉ xám xịt, rồi đàn cá. Ở bên cạnh có nhà màu vàng, là cơ quan hành chính của Thảo cầm viên, bây giờ là doanh trại chính của cảnh sát mật. Tại đây, Thiêm đã tra tấn những nạn nhân trong các phòng giam biệt lập hàng năm trời trong sở thú.

Đội quân bại trận ngồi tại nhà hàng café Rex cạnh đường Lê Lợi, thấm đau những vết thương của họ. Có những sĩ quan trẻ – những người còn mơ tưởng thời vàng son, tay trái chiếm ngục Patis, tay phải cầm điếu thuốc phì phào, ba hoa về những trận đánh tương lai chống Cộng sản – họ xuất phát từ thời kỳ đã bị đánh bại và hom hem hơn những đồng đội đã có được cái may mắn gấp đôi – thoát chết trong cuộc chạy dài từ mặt trận phía Bắc và được phép vào thành phố. Chế độ không dung thứ số này, xuất phát từ sợ Cộng sản thâm nhập, nhưng để làm cho người Sài Gòn yên lòng, cố giữ bí mật thực trạng của vấn đề. Không xa lắm là câu lạc bộ Nobel tại Sài Gòn, thời kỳ thực dân vàng son, còn kéo dài nữa như cuộc cách mạng chưa đến hồi kết thúc. Tại câu lạc bộ 147 đường Võ Tánh, được bảo vệ bằng dây kẽm gai và hàng rào máy, có ba chục cô gái ngực trần xinh đẹp, chưa đến tuổi 20, ai cũng hiểu rõ. Nơi ẩn náu này chỉ dành cho người da trắng, người Việt Nam không được phép vào dù họ có giàu có đến đâu, bằng đồng tiền họ cũng không thể mua được màu da. Người Mỹ, Hà Lan, người Đức đầm đìa mồ hôi, ngồi nhậu, tay mân mê cái bụng. Ai muốn cứ việc, nhiều người muốn lắm. “Mật ong, hãy qua đây, ở đây không phải là Việt Nam”, một người ngồi cạnh quầy rượu kêu lên, anh ta nói đúng.

Nhưng nếu đó là Việt Nam. Một cô trong bọn họ nói: “Họ sẽ chặt hai tay, cắt tóc, đốt cháy môi tôi”. Vì sao? Bởi vì cô ấy đã sơn móng tay, đã trang điểm đôi môi, đã uốn mái tóc theo kiểu phương Tây. Không thể tả được sự sợ hãi, sự nghi ngờ, sự căm giận sâu sắc đến chừng nào. Những người nói đến hòa hợp, hòa giải, thực ra họ không biết họ nói gì đây?

Ngày 29-4, cuối cùng hình như thời điểm treo cổ đã trôi qua. Sự hành quyết mà mọi người chờ đợi, cuối cùng đã được xác định: Sài Gòn sẽ bị trừng phạt, bị thanh lọc, những con quỷ dữ sẽ bị đuổi đi hết. Cố gắng của “Big Minh” đạt tới đàm phán đã thất bại. Đêm qua những phát đạn pháo đầu tiên không ngớt nã vào sân bay Tân Sơn Nhất. Hỏa lực pháo binh ở phía Bắc, phía Tây và những tiếng nổ đều đều ở Củ Chi, nơi kho đạn dược lớn nhất Việt Nam đã bị nổ tung, tất cả đã làm cho bầu trời biến thành một bức tường lửa đỏ rực.

Terzani, Mummendey và tôi nghỉ qua đêm tại hành lang, an toàn hơn trong các phòng của chúng tôi nhìn ra đường. Khách sạn Continental có tường dày, và chỉ có viên đạn bắn trúng đích mới hạ được chúng tôi. Chúng tôi ngồi trên bậc thềm lát đá mát lạnh trong lối đi xây cao, sơn màu trắng, đưa cái đầu vào phía trong, giữa chúng tôi là chiếc đài bán dẫn, và nếu có tiếng động lớn ở gần cũng không sao. Thật ngẫu nhiên chúng tôi nghe được tin liên lạc qua radio giữa cơ quan trợ lý quốc phòng Hoa Kỳ (DAO) và đại sứ quán. Cuộc điện đàm này thật quỷ quái, kỳ dị giữa trực ban của DAO và đại sứ quán, tiếng nói của họ chắc nịch, trầm tĩnh, giọng ồm ồm, vang vang phía xa là tiếng súng pháo cao xạ và tiếng nổ kinh hoàng. “Hai lính thủy bị giết chết trong một trận đánh ác liệt, bao giờ chúng ta sẽ gặp nhau?” Tiếng trả lời từ đại sứ quán sau giây lát: “Đúng 6 giờ”. Và như vậy phải bắt đầu di tản ngay.

Các con chuột xa rời chiếc tàu đang chìm. Hình như số phận đuổi kịp thành phố. Những cô gái mãi dâm của chiến tranh cùng với những đồ xa xỉ và những kẻ trục lợi trong chiến tranh, những cuộc tiệc tùng thối nát và nhũng ký sinh trùng béo phị của họ – phút chót mà họ vẫn còn mong đợi ở một điều gì kỳ diệu, giờ đây đang nghĩ tới cách làm giàu của mình trước một phiên tòa tất yếu sẽ diễn ra.

Sài Gòn tự cướp bóc mình. Giống những con kên kên, dòng người đổ xô đến những nơi người Mỹ rút đi bỏ của lại, xâu xé những miếng béo bở, đóng đinh xương xẩu. Vơ lấy những thứ như máy truyền hình, máy chụp ảnh, máy thu thanh, dụng cụ nhà tắm, khung cửa sổ, đèn điện tất cả được tháo rời, chở đi ngay. Nhưng họ không phải là tầng lớp nghèo khổ, mà họ là viên chức, binh lính, sĩ quan cao cấp – những người từ sự bế tắc của lòng tham muốn phồn vinh và giàu có không tìm ra lối thoát vào 12 giờ kém 5.

Trong lúc đó người Mỹ lo sơ tán, thúc giục phóng viên nước ngoài đến những điểm gặp mặt đã hẹn trước, những phóng viên chiến trường thuộc loại tinh nhuệ của Mỹ tự dựng chướng ngại sau cổng sắt đại sứ quán Hoa Kỳ. Trên những tháp canh có bố trí súng đại liên gần góc khu vực, mà bên trong do lính Mỹ, bên ngoài do lính tinh nhuệ của Thiệu canh gác, có phóng viên nhiếp ảnh ngồi, họ liên tục chụp ảnh về dòng người tuyệt vọng trước cổng sứ quán, dòng người còn hy vọng tìm được chỗ thoát thân trên chuyến bay trực thăng cuối cùng với niềm tin tìm được tự do. Cả ngày, cả đêm, máy bay trực thăng cất cánh bay lên. Vào sáng 30-4, dòng người Việt Nam xông vào tòa đại sứ quán Mỹ, tìm vơ vét của dưới tiếng súng bắn chát chúa trên đầu họ. Trong lúc đó, trên nóc nhà vẫn còn máy bay trực thăng cất cánh và hạ cánh, do lính thủy bảo vệ bằng súng tiểu liên.

Giờ khắc số 0 kéo dài 5 tiếng đồng hồ – vào 7 giờ sáng, chiếc máy bay trực thăng cuối cùng của Mỹ đã rời khỏi Sài Gòn. Vào 12 giờ trưa, lá cờ Mặt trận Giải phóng phấp phới bay trên dinh Độc lập.

Dietrich Mummendey cùng tôi đã trụ lại qua đêm tại Hội Chữ Thập đỏ nằm trên đường Hồng Thập Tự. Vào khoảng tám giờ sáng, chúng tôi đi đến khách sạn Caravel nơi tập trung hầu hết các phóng viên thông tấn nước ngoài còn ở lại. Đầu tiên là người Pháp, người Nhật, một vài người Anh, Ý và cả chúng tôi. Mummendey và tôi không thể nán lại lâu hơn nên đã đi đến văn phòng của hãng Reuters nằm ở một góc chéo đường dẫn đến Dinh Độc lập cách khách sạn khoảng 2 cây số.

Mặc dù tôi sợ đến run cả hai đầu gối nhưng tôi vẫn đi. Đúng 11 giờ 15 phút, tôi đã đứng một mình trước dinh Độc lập mà xung quanh yên lặng như một viện bảo tàng vào sáng chủ nhật, không có người canh gác, mà trước các trạm gác và rào chắn thông thường có bố trí vũ khí hạng nặng lại ngổn ngang những mũ sắt, quân phục, súng ống thậm chí cả lựu đạn và một khẩu súng chống tăng, súng máy ngay tại bãi cỏ.

Không có một bóng người nào ở đó, những tiếng nổ từ phía kho đạn của sân bay Tân Sơn Nhất vẫn còn vọng lại. Tôi bước qua cánh cổng sắt mở hé. Một viên thiếu tá bước sát ngay bên cạnh tôi nhưng làm như có vẻ không nhìn thấy tôi. Tôi băng ngang qua bãi cỏ và nghĩ rằng có thể bị ai đó bắn bất cứ lúc nào. Ngay bên những bậc thang dẫn đến lối vào chính có những người lính đang cãi vã. Một chiếc Li-mu-sin đen chạy vào, Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống của đệ nhất cộng hòa, định lên xe nói với tôi: “Chúng tôi đang chờ phái đoàn của Mặt trận Giải phóng vào đây ngay tại Dinh, anh có thể đợi nếu anh muốn”. Những người lính của đội cận vệ tổng thống thậm chí đã không thèm chào khi một nhân vật quan trọng thứ hai của quốc gia được chở ra bằng cổng sau.

Tôi hít một hơi thật sâu rồi bước tiếp lên những bậc tam cấp đi vào cửa chính qua tiền sảnh rồi đi lên lầu một. Tại đây tôi gặp Hà Huy Đỉnh, một luật sư Sài Gòn người nhỏ bé và cũng là học trò của thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Hà Huy Đỉnh, người mà chỉ vừa mới đi lên từ tầng hầm đã có cùng ý nghĩ như tôi – chỉ đi đến một chỗ mà nếu có chuyện gì quan trọng xảy ra, thì sẽ xảy ra ở đấy. Anh ta đã cùng ở bên tôi trong 3 tiếng đồng hồ tiếp theo.

Trong khoảnh khắc ấy, khi chúng tôi còn đang đứng ở giữa sảnh thì cửa thang máy bật mở, bước ra là tổng thống Minh “lớn”, thủ tướng Mẫu và một vài đổng lý đi lên từ dưới hầm trú ẩn. Ông Minh “lớn” nói: “Thật là tốt khi anh có mặt ở đây, anh sẽ chứng kiến sự chuyển đổi vận mệnh của đất nước tôi vào tay những người xứng đáng hơn tôi”.

Trong lúc những nhân viên của ông Minh đi đi lại lại đầy lo âu, thì ông Minh “lớn” vẫn đứng nguyên im lặng giữa sảnh và phóng tia mắt nhìn qua cửa sổ phía trước của dinh về hướng nhà thờ Đức Bà. Bỗng nhiên những tiếng nổ inh tai của súng, lựu đạn, súng máy vang lên. Tôi nằm rạp xuống sàn tìm kiếm sự che chắn đằng sau cột xi măng. Phải chăng có cuộc đảo chính trong phút cuối cùng, tấn công vào dinh chăng? Chúng ta phải chết à? Tôi hoảng sợ.

Không có tấm kính nào bị vỡ, chúng tôi rời khỏi chỗ nấp. Minh “lớn” vẫn còn đứng nguyên chỗ cũ, to lớn như một bức tượng bên cạnh ông thủ tướng thấp bé. Rồi trước mắt chúng tôi xuất hiện cảnh tượng không thể tin được: Ba chiếc xe tăng treo những lá cờ rất lớn của Mặt trận Giải phóng tiến qua cổng sắt hướng về phía bồn hoa trước Dinh. Súng bắn loạn xạ lên không trung, những phát súng của niềm vui, dàn giao hưởng của chiến thắng, giai điệu của vinh quang. Chiếc tăng đầu tiên húc đổ cánh cổng lăn xích thẳng trên bãi cỏ nhằm hướng dinh lao tới. Hai chiếc tăng còn lại vòng sang hai bên trái và phải rồi tất cả đều dừng lại trước mặt tiền của Dinh.

Tôi chạy ra ban công chụp ảnh. Tôi và Hà thay phiên nhau. Thật là một cảnh ngoạn mục. Và rồi người chỉ huy của chiếc tăng dẫn đầu với khẩu súng bên tay trái và một lá cờ bên tay phải xông lên cầu thang suýt xô ngã tôi. Hai chiến sĩ giải phóng khác chiếm lấy vị trí bên phải và bên trái của cầu thang. Đầu tiên không ai nhận thấy Minh “lớn” và những người khác đang chờ họ ở phía bên kia của phòng tiếp khách.

Người chỉ huy xe tăng đứng ngay trước mặt tôi. Anh ta hét vào tôi, hét đi hét lại điều gì đó mà tôi không hiểu. Hà hét giải thích cho tôi là mở cửa ra ban công. Tôi mở cánh cửa kính ra vào. Anh ta lướt qua tôi, kéo cờ lên và vẫy đi vẫy lại.

Ở phía dưới nhiều chiếc xe tăng tiếp tục tiến vào, và tất cả đều bắn lên không trung. Một số nhà báo từ ngoài chạy vào tràn lên bãi cỏ.

Khoảng ba chục binh sĩ của chế độ cũ, trong đó có một số có thể là lính của Thiệu mà cách đây vài giờ đã không xé bỏ quân phục và tháo chạy. Nay họ đứng giơ tay đầu hàng và xếp thành ba hàng trên bãi cỏ.

Tôi chạy vào Dinh vừa đúng lúc. Là một người châu Âu duy nhất, là một nhà báo duy nhất có mặt tại đấy – là tôi, chứng kiến Đại tướng Minh “lớn”, Tổng thống của Việt Nam Cộng Hòa đã bị bắt bởi Phạm Xuân Thệ, chỉ huy của Doan-Don-Son của quân đội giải phóng. Tay cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu k55 của Nga. Thệ rất phấn khích la lớn: “Ông Minh, chúng tôi muốn ông đi ngay ra đài phát thanh với chúng tôi để tránh đổ máu, để ông ra lệnh cho quân đội ông đầu hàng”.

Nhưng ông Minh đã không muốn đi. Ông ta đề nghị rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính cách mạng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm máy thu – nhưng không có kết quả. Giống như nhiều trường hợp của Sài Gòn, những nhân viên ở đây không những chỉ bỏ chạy mà còn lấy đi tất cả những gì có thể lấy được. Do vậy, không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả.

Sự lộn xộn chấm dứt khi người chỉ huy của Quân Giải phóng được giao nhiệm vụ của việc bàn giao chính quyền, Chính ủy Bùi Văn Tùng xuất hiện. Ngay lúc đó, một nhóm đông người tập trung lại và được đưa vào phòng tiếp khách của tầng thứ nhất. Ở đó chúng tôi đã chờ đợi. Những nhà báo khác tham gia với những người lính quân Giải phóng, Minh, Mẫu và người Chính ủy.

Sau một vài phút, Minh, Mẫu và và viên sĩ quan chính ủy rời khỏi phòng, theo sau là những người đã có mặt tại đây. Chúng tôi bước xuống cầu thang ra bãi cỏ, đến ngang chỗ vòi phun nước. Minh và Mẫu leo lên 1 chiếc xe jeep được bảo vệ bởi hai chiến sĩ giải phóng. Chính ủy Tùng và một người lính khác lên chiếc xe thứ hai. Tôi đang đứng ngay cạnh chiếc xe jeep nói chuyện với ông Chính ủy bằng tiếng Pháp, cố gắng xin ông ta để được lên xe. Ông gật đầu đồng ý. Luật sư Đỉnh với bộ râu giống như của Hồ Chí Minh và tôi nhảy lên phía sau xe jeep này và chúng tôi chạy đi ngay. Chỉ có hai chiếc xe này của chúng tôi chạy giữa thành phố lúc ấy – một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên dược làm dịu di – đi qua tòa Đại sứ Mỹ trống hoác đến một khu phụ của đài phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã kéo chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Mẫu quạt khuôn mặt ông bằng một quyển sách. Minh và Tùng ngồi trên hai chiếc ghế bành và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ để bên cạnh, trong lúc đó Tùng thảo văn kiện đầu hàng trên một mảnh giấy màu xanh.

Vũ Văn Mẫu trông có vẻ hài lòng. Ông tỏ ra như thể chiến thắng này là chiến thắng của riêng ông. Người thành lập và phát ngôn cho lực lượng thứ ba mà mới tuần trước đã giải thích cho tôi tại sao nhóm trung lập của ông ấy sẽ là một nhân tố cần thiết cho bất cứ một tương lai chính trị nào ở Nam Việt Nam, nay ông ấy không có một chút bối rối nào khi tuyên bố rằng: “Không còn lực lượng thứ nhất nữa nên chúng ta không còn cần đến lực lượng thứ ba, hòa giải dân tộc diễn ra sớm hơn dự định. Bây giờ dù muốn hay không chúng ta cùng làm việc cho nhân dân ta”. “Không phân biệt chính kiến?”. “Đúng, chúng ta có khác nhau về quan điểm nhưng những điểm khác nhau đó chỉ hướng chúng ta đi đến một mục đích chung”.

Chính ủy Tùng đã rất khó viết. Ông ngồi bất động trong khi thảo ra được một từ rồi đến từ nữa rồi lại thay thế bằng những từ khác. Có thể được chăng? Sau 30 năm chiến đấu cho một mục đích, cho đến hôm nay tiến thẳng vào dinh – thật không có gì sánh bằng. Thật là khó để biết phải viết gì.

Trong lúc đấy mọi người dường như đang thư giãn và giảm phấn khích hơn so với một giờ trước. Chỉ huy Phạm Xuân Thệ, người đã bắt Minh trong Dinh vẫn còn lăm lăm khẩu súng trong tay, hình như để giữ vững tinh thần. Ông ta nhắc đi nhắc lại với Minh: “Anh Minh, anh không cần phải sợ, chúng ta chiến đấu cho nhân dân. Chúng ta chiến đấu chống lại kẻ thù của chúng ta. Hãy nói trên đài để máu không đổ thêm nữa. Bây giờ chúng tôi đã ở đây. Không ai làm gì đến anh, sẽ không ai làm gì hại anh”.

Ông Minh đã im lặng. Dưới những chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn Minh với vẻ tò mò. Họ vây quanh ông ta trong lúc phía bên kia vẫn còn nghe những tiếng nổ. Những người chiến thắng đã thể hiện sự vui mừng không kìm nén được.

Cuối cùng ông Minh – người đã lật đổ Diệm năm 1963 và cứu Sài Gòn khỏi sự phá hủy bởi việc chấp nhận đầu hàng đúng lúc – cũng đã lên tiếng, ông đặt một câu hỏi với người canh giữ ông: “Anh trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp anh ấy?”

Đó là số mệnh của những người dân Việt Nam: người anh của Tổng thống là một tướng trong quân đội miền Bắc Việt Nam, từ hai mươi năm nay anh em ruột thịt đã chiến đấu chống lại nhau trong quân đội đối địch của nhân dân họ.

Chỉ huy Thệ im lặng. Tất cả mọi người bỗng nhiên im lặng và anh bạn Đỉnh của tôi nói với tôi bằng tiếng Anh: “Người bị thua muốn được hòa giải”.

Một vài người lính nói chuyện với tôi bằng tiếng Nga. Họ trông thấy bảng hiệu trên áo sơ mi của tôi: “Báo chí Đức” và họ tưởng rằng tôi là nhà báo của Đông Đức. Họ đã nói chuyện với tôi về Các Mác. Bạn tôi Hà Huy Đỉnh đã giải thích cho họ rằng tôi là nhà báo Tây Đức. Mặt họ sầm xuống, họ tỏ ra nghi nghờ và e dè hơn.

Cuối cùng mọi người đã sẵn sàng nhưng không ai trong số người này biết sử dụng máy ghi âm. Chính ủy Tùng hướng dẫn rất rõ ràng cho tôi những việc tôi phải làm: Minh cần phải đọc lại bản tuyên bố vào máy ghi âm của tôi, việc này được lặp đi lặp lại 3 lần. Lần đầu tiên Minh chần chừ bởi vì ông được yêu cầu phải đọc là: “Tôi, Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn”, nhưng ông ấy muốn nói: “Tôi Đại tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội hạ vũ khí đầu hàng”. Họ tranh luận qua lại và cuối cùng đi đến thỏa thuận, không nhượng bộ ông Minh. Ông Minh đã phải nói: “Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, – Tổng thống của chính quyền Sài Gòn”.

Nhưng Minh không đọc được bản viết tay của Chính ủy và nói sai nhiều lần. Tất cả mọi thứ lại phải được đọc lại từ đầu.

Cuối cùng, đã xong. Ông Minh kết thúc âm giọng chính xác “Miền Nam! Việt Nam!”

Tôi cũng ghi âm lời phát biểu của ông Mẫu và ông Chính ủy – và rồi chúng tôi đi vào tòa nhà phụ nhỏ vào phòng thu thanh. Tôi ngồi ngay phía trước micro và bật băng của ba bài phát biểu. Minh ngồi bên tay trái tôi, Chính ủy, Mẫu và chỉ huy Phạm Xuân Thệ đứng đằng sau chúng tôi. Kỹ thuật viên ngồi phía bên kia của kính ngăn yêu cầu bật máy lại, lần này để máy lại gần micrô hơn và không quá to.

Lúc này mọi sự đều tốt đẹp. Người Chính ủy đã cảm ơn tôi và nói những gì với tôi mà tôi không hiểu. Hà Huy Đỉnh dịch lại cho tôi. Tôi đã được ông cảm ơn về sự giúp đỡ của tôi và cho phép tôi chở ông về lại Dinh Độc lập trên chiếc xe jeep. Chúng tôi rời khỏi tòa nhà. Tôi ngồi sau tay lái và ông Chính ủy ngồi ghế bên.

Tôi đã không thể nổ máy chiếc xe. Người lái xe của Chính ủy đã không vui vẻ lắm khi thấy tôi làm công việc của anh ấy nên đã từ chối chỉ cách nổ máy xe cho tôi. Lúc ấy ông Chính ủy đã trở nên sốt ruột và chúng tôi đã đi sang một chiếc xe khác, nơi tôi lại ngồi băng ghế sau.

Chúng tôi lại đi qua những con đường của Việt Nam. Lúc ấy vào khoảng 14 giờ, những người lính của Mặt trận Giải phóng đã đứng gác tại tất cả các ngã tư và trên những con đường đã rất đông người. Chúng tôi đã đi mà không có bảo vệ. Sài Gòn, và nay là thành phố Hồ Chí Minh đã chắc chắn ở trong tay của chính quyền cách mạng, không gặp sự kháng cự nào. Tôi đã nhìn thấy xác chết của một người lính Cộng hòa tại một góc đường. Một người lái xe đặt xác anh ta vào sàn một chiếc xích lô và chở đi, đầu và chân của xác chết đập qua đập lại trên mặt đường. Thật là một cảnh tượng kinh khủng.

Tại Dinh, tôi đã nhảy ra khỏi xe. Hai ngày sau ông Minh và những thành viên của nội các đã được tham gia chuyển giao những công việc của chính phủ. Rồi ông được tự do trở về nhà với vườn hoa phong lan của mình.

Liệu người chiến thắng có muốn hòa giải ngay lập tức, không có trả thù chăng? Phải chăng anh ta có thể làm ngay nếu anh muốn?

Những ngày đầu tiên sau giải phóng chưa nói được nhiều về điều ấy. Rõ ràng đường phố đông đúc người, tiếng cười, tiếng hoan hô, anh bộ đội Giải phóng được đón chào khắp mọi nơi, sau mấy tiếng đồng hồ họ đi ra chợ không mang vũ khí, như khách du lịch. Hình ảnh hòa hợp này liệu không lừa mắt ta? Trong số người vui mừng hoan hô, tôi nhận ra được những gương mặt mà tôi đã nhìn thấy trước tòa đại sứ Mỹ – những con người trong những phút cuối cùng đã lỡ dịp lên trực thăng đi sang Mỹ. Những người bị bỏ lại mà sự sợ hãi của họ được che đậy sau những chiếc mặt nạ mà họ đã tháo dỡ trong những này cuối cùng của Sài Gòn. Phải chăng tất cả chỉ là lớp son phấn trang điểm? Ngoài ra, cũng không phải mọi người đều cảm thấy dễ chịu chiến tranh đã kết thúc, cuộc chém giết nhau vô nghĩa đã kết thúc, không còn cảnh gia đình ly tán, không còn cảnh con người bị què quặt. Không dễ dàng phân biệt được giữa niềm vui đằng sau bề ngoài hoan hỉ với sự sợ hãi được che đậy bên trong.

Vâng, cuộc sống bình thường hóa hầu như không có quá độ, không còn dấu vết của hận thù người nước ngoài, kể cả còn một số người Mỹ ở lại cũng được đối xử thân thiện. Mọi người đều nói đến hòa giải. Trên đường phố đang diễn ra điều ấy một cách rõ nét, mà tôi còn hoài nghi, khi nhìn thấy thanh niên bắt tay, ôm choàng những chiến sĩ Giải phóng, và cùng chụp ảnh chung với họ, những người trước đó mấy tuần tay cầm súng M16 của Mỹ đi tuần tra tại quảng trường Lam Sơn trong giờ giới nghiêm, trong đó có người còn muốn xin tôi đô-la để mua vé máy bay đi Mỹ.

Về việc tôi đang tìm hiểu phương hướng và đặc điểm của chiến dịch cải tạo sắp tới, gọi là “phi Thiệu hóa”, bạn tôi – anh Hà Huy Đỉnh đã giúp đỡ. Anh mời tôi đi dự một đám cưới. Anh không tiết lộ gì nhiều, chỉ nói rằng: “Cuối cùng anh sẽ tin tôi”. Cả tuần nay, những câu hỏi hóc búa của tôi về những bằng chứng cụ thể ý muốn hòa hợp của người chiến thắng luôn làm anh điên đầu. Anh Đỉnh tỏ ra hài lòng khi chia tay tôi vào buổi tối đám cưới.

Vào sáng hôm sau, ngày 9-5, anh đón tôi bằng một chiếc ô-tô nhỏ, chúng tôi đi qua đại sứ quán Mỹ bị vơ vét sạch, đi qua đại sứ quán Anh đã di tản, tại đây các anh bộ đội đang đóng quân. Quần áo màu xanh ô-liu của họ phơi trên bãi cỏ sân đại sứ quán Anh ngày nào còn rất thiêng liêng, và cả trên những cánh cửa sổ của tòa nhà tráng lệ này. Tại khu biệt thự quý phái, mấy trăm mét tiếp theo, tại đường Nguyễn Văn Giai, số nhà 63, chúng tôi dừng lại tại đó.

Phía sau cánh cổng, dưới tán những cây cọ, trong bóng mát của mái nhà tráng lệ của ngôi chùa gia đình cổ xưa, trên bàn là những chai rượu Montecis và Capuletis, Romeo và Julia. Hai gia đình tổ chức đám cưới cho các con của họ, đó là Việt Nam, đó là lịch sử của dân tộc này từ 50 năm nay. Tại đây, lịch sử không tìm thấy gì đối nghịch hơn, đau thương hơn và cũng không có gì hòa hợp hơn thế.

Có những người đến từ Hà Nội, những người khác đến từ Sài Gòn. Viên sĩ quan Hà Nội Vũ Công An là tướng của quân đội Bắc Việt Nam và đã từng đi công tác tại Cuba và Cộng hòa Dân chủ Đức. Nguyễn Mạnh Đào, chef của nhóm người Sài Gòn – bộ trưởng dưới thời Diệm, người thân cận của Thiệu cho đến phút chót, phó chủ tịch thượng viện và nguyên là sứ giả của ông chủ, đã nhiều lần đi – Mỹ và Cộng hòa Liên bang Đức. Mẹ của vị tướng Bắc Việt đã được ông Hồ Chí Minh trao tặng huân chương cao quý của đất nước vì tất cả những người con của mẹ đã tích cực tham gia chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng của Việt Nam từ trước 1950. Anh chị em, con cái và họ hàng của thượng nghị sĩ Sài Gòn cùng lúc ấy cũng không kém phần tích cực: không có ai có quân hàm hoặc danh vị dân sự, nhưng họ làm ra tiền.

Bây giờ họ đang ngồi tại đây, mặc dầu họ cũng có thể đã khác đi. Con cái của hai gia đình quen biết nhau mới vài tuần, nhưng nay họ đã đi đến kết hôn. Anh Đỉnh thừa nhận rằng cũng có một phần cường điệu một chút: đây là đám cưới đầu tiên và duy nhất tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày giải phóng. Chắc chắn con cái mong muốn chính phủ và gia đình cùng hòa hợp, đồng thuận với nhau.

Lời chúc rượu đầu tiên kết thúc với một việc không may: thượng nghị sĩ Đào dành cho cặp tân hôn một công việc, làm người tiên đoán tương lai cho ông. Và ngay tức khắc bị tướng An phản bác: “Anh đừng làm chúng tôi nhớ lại số tử vi của anh – tức là nhớ lại thời quá khứ của anh nhé”. Anh Đỉnh nói nhỏ với tôi, ông Đào là một người mà Thiệu hay nhờ đến mỗi khi có những quyết định quan trọng.

Chỉ ít phút sau, ông Đào đã lấy lại tinh thần sau cơn sốc đầu tiên, ông trả lời vị tướng: “Tôi chỉ gật đầu đồng ý”. Vị tướng trả lời nhanh nhảu “Anh cũng không cần cái đầu anh cho công việc gì khác – cũng còn may, anh còn cái đầu để gật”.

Đó là những lời nói nặng nề, là sự cố duy nhất xảy ra trong ngày hôm nay. Vị tướng đọc một bài diễn văn, duy nhất trong đó có nói một lần về lỗi lầm mà gia đình đã mắc phải. Ông nói 15 lần về hòa hợp, 11 lần về khoan dung và 21 lần về tương lai. Sau đó, ông cởi chiếc áo vest ra và bước tới ôm hôn bên trái, bên phải má ông thượng nghị sĩ.

Dẫu nhiên, chắc người ta chưa đi những bước đầu tiên – bước thử nghiệm hướng tới tương lai, nhưng rõ ràng họ đã bắt đầu rồi.

* Börries Gallasch là biên tập viên báo Spiegel

Bài liên quan

Bài đăng mới