Đào Cam Mộc quê ở Yên Định, Thanh Hóa, vốn thông minh và khỏe mạnh. Một lần, vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) tuần du qua đoạn sông Mã, thuyền không may bị mắc cạn. Đào Cam Mộc đã dùng mưu mẹo và sức khỏe của ông để đưa đoàn thuyền nhà vua vượt qua. Ông được vời vào kinh đô làm quan, dưới triều Lê Ngọa Triều (1006-1009), được phong chức Chi hậu.

Sau khi vua Lê Đại Hành mất, các vua nối ngôi ăn chơi trụy lạc, chém giết lẫn nhau, chẳng những người trong nước đều biết mà đến ngay cả nhà Tống cũng hay. Bọn quan lại ở biên ải phía Nam đã dâng thư về triều thúc giục vua Tống nhanh chóng lợi dụng cơ hội này đem quân sang đánh chiếm nước ta.
Mùa hạ, tháng 6 năm Bính Ngọ (1006), Tri Quảng Châu nước Tống là Lăng Sách dâng thư nói: “Nay nhân Giao Chỉ có loạn, xin cho thần và Duyên biên An phủ sứ Thiệu Việp cùng nhau bàn tính công việc tâu lên. Bọn thần dựa theo lời của bọn Hoàng Khánh Tập hơn nghìn người ở Giao Chỉ, do Liêm Châu đưa đến, nói rằng các con của Nam Bình Vương đều đặt trại sách phân tán ở các nơi, quan thuộc lìa tan, nhân dân lo sợ, xin đem quân sang đánh dẹp, bọn Khánh Tập nguyện làm tiên phong, có thể hẹn ngày lấy được. Nếu triều đình chuẩn lời thỉnh cầu, thì xin lấy binh đóng đồn ở các châu thuộc Quảng Nam (là đất tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc) và cho thêm 5 nghìn quân mạnh ở Kinh Hồ, thủy bộ cùng tiến, có thể bình định được ngay”. Vua Tống nói: “Họ Lê thường sai con sang chầu, góc biển yên tĩnh, không mất trung thuận, nay nghe tin mới mất (Lê Hoàn), chưa có lễ thăm viếng, đã vội đánh kẻ có tang, há phải việc làm của bậc vương giả?”. Vua Tống xuống chiếu cho bọn Sách vỗ yên như trước, cốt được êm lặng. Lại sai Việp đưa thư sang bày tỏ uy đức của triều đình, bảo không nên giết hại lẫn nhau, nếu anh em để lâu không định ngôi thứ, khi đó quân thiên triều sang hỏi tội, thì họ Lê không còn một mống nào sống sót. Vua sợ, xin sai em sang cống (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, 1998, tập I, tr. 234).
Trong lúc tình hình đất nước bất ổn trước họa xâm lăng, khi đó người ta đồn rằng, cây gạo to ở làng Diên Uẩn, châu Cổ Pháp bị sét đánh hiện lên dòng chữ:
“Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Mộc dị tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình”
(Nghĩa là:
Gốc cây thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Cây hòa đao rụng
Mười tám hạt thành
Cành đông xuống đất
Cây khác lại sinh
Đông mặt trời mọc
Tây sao náu hình
Khoảng sáu bảy năm
Thiên hạ thái bình).
Sư Vạn Hạnh đoán rằng: “Thụ căn diểu diểu”, chữ căn nghĩa là gốc, gốc tức là vua, chữ diểu đồng âm với yểu. “Mộc biểu thanh thanh”, chữ biểu là ngọn, tức là bề tôi. Ba chữ hòa – đao – mộc ghép lại là chữ Lê. Hai chữ Đông A ghép lại là chữ Trần, hai chữ nhập địa là phương Bắc vào cướp. “Mộc dị tái sinh” là họ Lê khác lại sinh ra. “Chấn cung kiến nhật”, Chấn là phương Đông, kiến là mọc ra, nhật là thiên tử. “Đoài cung ẩn tinh”, Đoài là phương Tây, ẩn cũng như lặn. Mấy câu này ý nói vua thì non yểu, bầy tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình.
Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn rằng: “Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem thiên hạ họ Lý thì rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân, chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông thế nào, thực là cái may nghìn năm có một”. Công Uẩn sợ câu ấy tiết lộ, bảo người đem giấu Vạn Hạnh ở Tiên Sơn. (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, 1998, tập I, tr. 238).
Đến khi Ngọa Triều băng, vua nối ngôi còn bé, Công Uẩn cùng với Hữu Điện tiền Chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân tùy long (đội quân hầu của vua) vào làm túc vệ. Chi hậu Đào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có ý muốn nhận việc truyền ngôi, nhân lúc vắng mới nói khích rằng: “Gần đây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nổi nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nháo nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh Lê[1], trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ khư khư giữ tiểu tiết làm gì!”. Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ Cam Mộc có mưu khác, mới giả cách mắng rằng:”Sao ông lại nói như thế, tôi phải bắt ông nộp quan !”. Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng: “Tôi thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn cáo giác tôi thì tôi không phải là người sợ chết”. Công Uẩn nói: “Tôi đâu nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó thôi”. Hôm sau, Cam Mộc lại bảo Công Uẩn: “Người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái họa không thể che giấu được nữa. Chuyển họa thành phúc chỉ trong sớm chiều. Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi ngại gì nữa?”. Công Uẩn nói: “Tôi đã hiểu ý ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì nên tính kế thế nào?”. Cam Mộc nói: “Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng người chịu theo. Hiện nay, trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu nổi, Thân vệ nên lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy chỗ thấp, có ai ngăn được!”. Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, đều họp cả ở trong triều bàn rằng: “Hiện nay dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có giữ được cái đầu hay không?”. Thế rồi cùng nhau dìu Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên tử, lên ngôi Hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô “vạn tuế” vang dậy cả trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy năm sau làm niên hiệu Thuận Thiên năm đầu (Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, 1998, tập I, tr. 238-239). Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 [1010] mở đầu vương triều Lý. Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương. Đến mùa thu, tháng 7, từ thành Hoa Lư dời đô ra thành Đại La. Khi đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng bay lên từ thuyền ngự, nhân đó đổi tên là Thăng Long.
Đào Cam Mộc được Lý Công Uẩn tin dùng, phong làm Nghĩa Tín Hầu và gả con gái trưởng là Công chúa An Quốc, ông mất năm Ất Mão (Thuận Thiên năm thứ 6 (1015)) và được truy phong là Thái sư Á Vương. Tại quê hương ông là huyện Yên Định (Thanh Hóa), nhiều nơi có đền thờ Đào Cam Mộc.
Bên trái Đền Đô thờ Lý Bát Đế ở Đình Bảng (tỉnh Bắc Ninh) là khu Nhà Võ chỉ, nơi thờ những quan võ tiêu biểu triều Lý có bia khắc 4 chữ “Nghĩa liệt anh hùng”, là nơi thờ ba vị tướng: Đào Cam Mộc, Lê Phụng Hiểu và Lý Thường Kiệt.
Ở phường 4, quận 8, TP. Hồ Chí Minh có con đường mang tên Đào Cam Mộc. Đào Cam Mộc – đệ nhất công thần đã tôn phù Lý Công Uẩn lên ngôi vua khai sáng triều Lý. Một triều đại thịnh trị kéo dài suốt 215 năm trong lịch sử nước ta (1010-1225) với kinh đô Thăng Long đã tồn tại đến nay với tên thủ đô Hà Nội, chúng ta đang tiến tới kỷ niệm 1.000 năm. Công lao to lớn của Đào Cam Mộc đã được lịch sử ghi nhận. Cùng với hai võ tướng Lê Phụng Hiểu và Lý Thường Kiệt, ông thật sự xứng đáng có đền thờ và được đặt tên cho một đường phố ở thủ đô Hà Nội trong dịp kỷ niệm trọng thể này.
[1] Xem đoạn trích Hán văn trong sách Việt sử lược, chép là Dương Lê, Nguyễn Minh Tường dẫn trong bài “Đào Cam Mộc người có công đầu…”.