Vụ bức tử Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật

Đỗ Thiếu Khang

Tạp chí Xưa&Nay, số 354, tháng 4 năm 2010

Thời vua Lê Thánh Tông trị vì được coi là thời thịnh trị vào bậc nhất ở nước ta. Mùa xuân, tháng 02, năm Hồng Đức thứ 15 (Giáp Thìn – 1484), vua cho mở khoa thi. Có 44 cử nhân được về Thăng Long dự thi Đình. Nhà vua trực tiếp ra đề văn sách[1] “hỏi về nhà Triệu Tống dùng Nho sĩ”. Sau khi đọc bài viết của Nguyễn Quang Bật, nhà vua đã chấm ông đỗ Trạng nguyên, các ông Nguyễn Giác đỗ Bảng nhãn, Mai Duy Tinh đỗ Thám hoa. Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật năm ấy mới 21 tuổi.

Khu lăng bia Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật

Tháng 8, vua ra lệnh dựng bia Tiến sĩ, Lễ bộ Thượng thư Quách Đình Bảo tâu: “…xin đổi trạng nguyên, bảng nhỡn, thám hoa thành tiến sĩ cập đệ, chánh bảng thành tiến sĩ xuất thân, phụ bảng thành đồng tiến sĩ xuất thân để hợp với quy chế ngày nay. Vua y tờ tâu, sai Công bộ khởi công dựng tạc bia”[2].                                                     

Tuy nhiên, những quy định mới chỉ dùng trong văn tự, còn trong đời thường, các từ trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa vẫn thông dụng.

Ngày nay thăm Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội, qua hàng bia Tiến sĩ, lại qua Văn Miếu rồi vào Hậu Đường nhà Thái Học, ta được đọc bảng danh sách 56 trạng nguyên của những triều đại xưa. Bản danh sách đó ở những dòng thứ 16 có ghi: “Nguyễn Quang Bật, xã Bình Ngô, huyện Gia Định”.

Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật may mắn được phò tá một đấng minh quân vào một thời hiển hách của đất nước. Ông vào Đông Các[3], là một trong 28 người của Hội Tao Đàn[4] và làm quan đến chức Đô ngự sử[5]; trải qua 3 triều: Lê Thánh Tông (1460-1497 – từ năm 1484) đến Lê Hiến Tông (1497-1504) và Lê Túc Tông (1504).

Nhưng Túc Tông yểu mệnh, tháng 6 lên ngôi thì tháng 12 ông mất khi mới 17 tuổi, Lê Uy Mục kế vị lấy niên hiệu là Đoan Khánh. Năm sau (Ất Sửu – 1505) là năm Đoan Khánh thứ nhất.

Mẹ sinh ra Uy Mục chỉ là tỳ thiếp lại mất sớm, bà Kính phi không có con trai, nhận nuôi làm con mình và có ý muốn lập Uy Mục làm vua. Khi Hiến Tông nằm giường bệnh, sợ các đại thần không theo, bà Kính phi mang vàng bạc đút lót, nhưng Lễ bộ Thượng thư[6] Đàm Văn Lễ không nhận. Đến khi Lê Hiến Tông ốm nặng, hai ông Nguyễn Quang Bật và Đàm Văn Lễ nhận di chiếu của tiên vương phò Thái tử Thuần (tức Lê Túc Tông) nối ngôi. Uy Mục rất căm giận hai ông Đàm và Nguyễn, khi Lê Hiến Tông mất không chịu giúp mình thay đổi di chiếu nên quyết trả thù. Đại Việt sử ký chép: “Vua (Uy Mục) căm giận lắm. Đến đây, dùng mưu của Khương Chủng, Nguyễn Nhữ Vi biếm hai người làm Thừa tuyên sứ Quảng Nam. Khi họ đến sông lớn huyện Chân Phúc, vua sai người đuổi theo bắt phải tự tử. Hai người khi sắp gieo mình xuống nước, ngâm thơ quốc ngữ rồi mới mất. Sau, đình thần trong bụng ai cũng biết là hai người chết không đáng tội, can vua, vua đổ tội cho Nhữ Vi, rồi giết y” (ĐVSKTT, Bản kỷ thực lục, quyển XIV, kỷ nhà Lê, Nxb. KHXH, HN, 1993, tập III, tr. 46).                    

Quốc sử chỉ viết đôi dòng nhưng đã cho thấy hoàng đế đương triều là kẻ thủ ác, tâm địa phản trắc và tên đồng phạm Nhữ Vi là quân “tốt thí”. Để hiểu rõ sự kiện trên có thể tìm thêm các tư liệu trong thư tịch cũng như trong dân gian.

Văn bia ở chùa Hòa Lạc ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên (nay là chùa của thôn Hành Lạc, thị trấn Như Quỳnh – Hà Nội). Bia này ở bên trái hiên nhà bái đường, nhưng gần đây người ta dựng chính điện rộng lớn hơn và quay lưng lại hướng cũ. Vì vậy bia hiện ở phía sau chùa. Bia có tuổi thọ hơn 500 năm, nhưng nhờ nét khắc rất tinh xảo nên chỉ một số chữ không đọc được.

Cuối bài văn bia này viết:

Hán Việt: “Đoan Khánh nguyên niên tứ Giáp Thìn khoa Tiến sĩ cập đệ Lại bộ Hữu Thị lang Trung trinh Đại phu Khuông Thiếu doãn, Gia Định, Nguyễn Quang Bật cẩn chí”.

Dịch nghĩa:“Năm Đoan Khánh thứ nhất, ơn vua khoa Giáp Thìn đỗ Tiến sĩ cập đệ, Hữu Thị lang Bộ Lại Trung trinh Đại phu Khuông Thiếu Doãn, Nguyễn Quang Bật người ở Gia Định… cẩn trọng viết…”. 

Như vậy, văn bia này do Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật soạn, đồng thời cũng cho thấy từ triều trước, ông Nguyễn đã được phong tước Trung trinh Đại phu Khuông Thiếu doãn[7], khi Uy Mục lên ngôi cũng không xóa bỏ tước hiệu ấy, chỉ giáng ông từ Đô Ngự sử (bộ trưởng) xuống Hữu Thị lang (thứ trưởng) và chuyển sang Bộ Lại[8].

Bài văn bia ca ngợi một vị đô thống (quan võ) người làng: “Thường đem tiền của bổng lộc gia tài chu cấp cho thân thích làng xóm, xây cầu sông Nghĩa Trụ 9 nhịp và ngôi chùa 32 gian…”.  

Một đoạn khác viết:

Hán Việt: “Đoan Khánh nguyên niên, Ất Sửu ngũ nguyệt lục nhật, Canh Dần Mão thời thọ chung, hưởng linh thất thập nhất. Bản niên bát nguyệt nhị thập nhật Nhâm Thân táng ư bản xã Nguyễn xứ điền…”.

Dịch nghĩa:“Năm Đoan Khánh thứ nhất, ngày sáu tháng năm năm Ất Sửu, ngày Canh Dần giờ Mão cụ mất, hưởng thọ bảy mươi mốt tuổi. Cũng năm ấy, ngày Nhâm Thân, hai mươi tháng tám, táng cụ ở ruộng xứ Nguyễn xã ta…”.

Những dòng viết này cho thấy ông Nguyễn vẫn còn có mặt ở Thăng Long sau “ngày Nhâm Thân 20 tháng 8” “năm Ất Sửu” (1505) để viết bài văn bia này.

Như vậy dù rất khẩn trương đi nữa, việc ông bị “biếm” đi Quảng Nam cũng chỉ có thể diễn ra vào mùa đông năm ấy.

Điều kiện giao thông của 500 năm trước, đường sá, phương tiện, vô cùng vất vả; từ Thăng Long đến Quảng Nam “đường xa ngàn dặm” (hơn 700km) tất phải đi hàng tháng, nên đến đầu năm sau mới tới được “cửa sông lớn” là nơi vụ bức tử diễn ra. Vì thế, sự việc bi thảm cuối đời ông Nguyễn chắc chắn vào đầu năm Bính Dần – 1506.

Theo sách Người Kinh Bắc – Đối đáp giỏi của Phạm Thuận Thành, trong mục “Ông Trạng bị trầm hà”, tác giả viết: “… Ông làm bài thơ tuyệt mệnh của mình trước khi chết:

Trời, trời xanh, nước, nước xanh

Ai đem người ngọc đến Nam Ninh

Nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá

Sao chẳng đưa thư tới Động Đình?

(tr.42 – Nxb. Văn hóa dân tộc, in năm 2001)

Bài thơ trên được truyền lại, tất phải do người đã chứng kiến những giây phút cuối cùng của quan Ngự sử; không những thế, họ phải là người có học thức. Xem vậy, chuyến đi Quảng Nam đúng là một chuyến công vụ như quốc sử đã ghi “biếm hai người làm Thừa tuyên sứ”và vào phút cuối đời bên ông Nguyễn không chỉ là những “sát thủ”. 

Tìm đọc bản gia phả chữ Hán của họ Đỗ ở Bình Ngô – Đại Mão[9] viết năm Tự Đức thứ 6 (Quý Sửu – 1853), hay bản phụng sao tục (chép lại và viết tiếp) cũng bằng chữ Hán viết năm Ất Tỵ đời Thành Thái (1905) thì đoạn viết về nguồn gốc dòng họ này như sau:

Hán Việt:“Giảng Dụ Tướng Công vi thủy tổ tiền thử tắc thế viễn ngôn yên bất tri kỳ sở tự, nãi giả Bình Ngô cố lão, tiền hữu Thông Nho, hậu hữu Kinh Môn tri phủ, thường vị ngã tộc đàm tự, hữu viết ngã chi phái lý hãn tương truyền thị bản ấp. Trạng nguyên tự Quang Bật Nguyễn tướng công, chi duệ dã. Công đăng sĩ sơ dự Tao Đàn, hậu thụ cố mệnh, ủng lập Anh Tông, Uy Mục Đế hám hám bất lập kỷ thoán công vu Nam Ninh (sử ký thoán vu Quảng Nam an trí) công đại phẫn khuê tâm đầu thạch thệ viết: ‘Kỳ thị tử tôn, hậu hữu sĩ vu bản triều giả, hữu như thử thạch’. Nhân ngâm quốc ngữ dĩ tự khiển, thi viết: Trời xanh xanh nước xanh xanh, ai đem người ngọc đến Nam Ninh, nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá, sao chẳng đưa thư tới Động Đình. Tự phó hải một, thị hậu húy công chi thệ, cải vi Đỗ tức Giảng Dụ công dĩ hất vu kim dã…”.

Từ bản chữ Hán này, năm 1948, họ Đỗ đã dịch ra chữ quốc ngữ và viết tiếp.

Đoạn trên được dịch nghĩa như sau:

“Giảng Dụ Tướng công là Thủy Tổ họ ta, còn về trước thất truyền không biết từ đâu. Gần đây có các cố lão ở Bình Ngô, trước là cụ Thông Nho, sau là cụ Tri Phủ Kinh Môn, những người thường vì họ ta mà đàm luận rằng: Người làng vẫn tương truyền họ ta là dòng dõi cụ Trạng nguyên Quang Bật, Nguyễn tướng công. Cụ làm quan có chân trong Tao Đàn, chịu mệnh tiên đế lập vua Anh Tông. Sau khi vua Uy Mục lên ngôi, rất giận trước đã không lập mình bèn đày cụ đến Nam Ninh (sử chép đưa đến Quảng Nam an trí). Cụ bị oan, tức giận lắm, ném hòn đá xuống nước và thề rằng: ‘Con cháu nhà này về sau ai làm quan với triều này (nhà Lê) thì số phận cũng như hòn đá này’, nhân cụ ngâm mấy câu thơ bằng quốc âm cho khuây lòng. Thơ rằng:

Trời xanh xanh nước xanh xanh

Ai đem người ngọc đến Nam Ninh

Nào chàng Liễu Nghị đi đâu tá

sao chẳng đưa thư tới Động Đình[10],

rồi nhảy xuống nước tự vẫn. Từ đó, con cháu kiêng lời thề của cụ đổi sang họ Đỗ tức là từ cụ Giảng Dụ đến ngày nay…”.

Những dòng viết trên hầu hết thống nhất với Đại Việt ský toàn t về cuộc đời và kết cục bi thảm của Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật tuy có lầm Túc Tông (1505) với Anh Tông (15561573) nhưng cho ta rõ hơn tình tiết lúc ông bị bức tử.

Theo sách Trùng đính thiên Nam danh địa (đính chính về những ngôi đất nổi tiếng ở nước Nam), sách nói về phong thủy, in năm Ất Tỵ (1905) đời Thành Thái, hiệu đính sách của nhà phong thủy nước ta từ hơn 300 năm trước. Ông họ Lê tên hiệu Hòa Chính Tử, viết năm Chính Hòa thứ 3 (Lê Hy Tông – Trịnh Căn – Nhâm Tuất – 1682), gồm 76 chương.

Ở mục có đầu đề Trạng nguyên địa cộng thập bát(18 ngôi đất phát trạng nguyên), về mỗi ngôi đều nói rõ địa điểm, hình dáng, tên người được đất và lần lượt nêu ra các ngôi đất của trạng nguyên, bảng nhãn: Nguyễn Trực, Vũ Duệ, Nguyễn Quang Bật, Hoàng Nghĩa Phú, Nguyễn Giản Thanh, Mạc Đĩnh Chi, Lương Thế Vinh, Dương Phúc Tư, Giáp Hải,…

Những dòng viết về Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật như sau:

Hán Việt:“Nguyễn Quang Bật phụ phần tại bản quán Gia Định huyện (kim cải Gia Bình), Bình Ngô xã. Bình dương hóa hình nhất thân phiên tác thành quách, tứ vi can hạc. Vũ thủy kiến hành long, thế như bàn long, đái tinh phong. Đãn hiềm khách thủy dao long đầu. Ư Hồng Đức thập ngũ niên trúng, sĩ chí Đô Ngự sử phi tai nịch tử”.

Dịch nghĩa: “Mộ thân phụ Nguyễn Quang Bật ở xã Bình Ngô, huyện Gia Định (nay đổi là Gia Bình), hình biển lớn phẳng lặng, một khi trở mình thành thành quách, bốn bề khô cạn, khi trời mưa nước lên trông như rồng đi, thế như cuộn khúc, đội tinh phong. Chỉ hiềm một nỗi nước bên ngoài làm lay động đầu rồng. Nguyễn Quang Bật đỗ (Trạng Nguyên) năm Hồng Đức thứ 15, làm quan đến Đô Ngự sử bị tai bay vạ gió mà chết chìm” (Đỗ Tuấn Anh dịch).

Những dòng viết trên cũng chính là hiện trạng thế đất của mộ tổ họ Đỗ.

ĐVSKTT chép: Năm Đoan Khánh thứ 3 (1507), nhà Minh sai Chánh sứ Thẩm Đào, Phó sứ Hứa Thiên Tích mang chiếu thư sang phong Uy Mục làm An Nam Quốc vương. Thiên Tích có câu thơ rằng:

An Nam tứ bách vận vưu trường

Thiên ý như hà giáng quỷ vương

(Vận nước Nam còn những 400 năm,

Sao trời lại giáng xuống một vua quỷ).

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim viết: “…đã làm điều bạo ngược, lại say đắm tửu sắc; đêm nào cũng cùng với cung nhân uống rượu, rồi đến khi say thì giết đi. Có khi bắt quân sĩ lấy gậy đánh nhau để làm trò chơi. Tính đã hung ác, mà lại hay phản trắc. Cho nên sứ Tàu sang làm thơ gọi Uy Mục là Quỷ vương” (VNSL,Trần Trọng Kim – phần 5)

Ở ngôi được 5 năm, Uy Mục bị truy đuổi ráo riết cùng đường phải uống thuốc độc tự tử (tháng 11 năm Kỷ Tỵ – 1509).

Ngày mồng 4 tháng 12, Giản Tu Công (tức Tương Dực Đế) lên ngôi, đổi niên hiệu là Hồng Thuận. Nhà vua thấy rõ ông Nguyễn bị xử oan nên truy phong ông tước Bá, ban cờ “Trung Trạng nguyên” và lệnh cho dân làng lập miếu thờ.

Nhưng ít lâu sau đã đổi khác. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên viết: “…Vua buổi đầu lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, cũng đáng coi là có công nghiệp. Song chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, dẫn đến nguy vong là bởi ở đấy” (ĐVSKTT,Bản kỷ thực lục,quyển 5a).

Người đời gọi Tương Dực là “vua lợn” vì năm Hồng Thuận thứ 5 (Quý Dậu – 1513), nhà Minh sai Chánh sứ là Trạm Nhược Thủy, Phó sứ là Phan Hy Tăng sang phong cho Tương Dực làm An Nam Quốc vương. Hy Tăng trông thấy vua, bảo Nhược Thủy: “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu”.

Tương Dực Đế ở ngôi 8 năm, thọ 24 tuổi, bị quyền thần Trịnh Duy Sản giết. Tiếp đó, Mạc Đăng Dung nổi lên, các quyền thần đánh giết lẫn nhau. Nay về thăm quê hương ông (xã An Bình, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), ta bắt gặp lăng tưởng niệm Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật. Trong lăng còn lưu giữ một bài vị cổ bằng đá, bài vị viết (dịch nghĩa):“Bài vị của cụ Nguyễn, đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn đời Lê Hồng Đức, chức Ngự sử đài Đô Ngự sử, tham dự hội Tao Đàn. Xã Thường Vũ phụng thờ”.


[1] Thể văn viết về chính trị, mưu kế, sách lược.

[2] Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH, 1993, HN, tập II, tr. 489. Bản kỷ thực lụcquyển XIII – Kỷ nhà Lê, 41a-41b.

[3] Tổ chức học hàm cao nhất thời xưa.

[4] Hội thơ do vua Lê Thánh Tông lập và đích thân làm Chủ súy, thường  gọi là Tao Đàn nhị thập bát tú.

[5] Chức quan chủ việc can gián vua đừng làm việc sai trái.

[6] Chức quan chủ việc giúp vua điều hành các công việc thường xuyên.

[7] Có lẽ là Tử tước vì sau này Tương Dực Đế truy phong ông lên tước Bá.

[8] Thời ấy Bộ Lại trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước.

[9] Họ Đỗ vốn trước kia ở Bình Ngô, đến đầu thế kỷ thứ XVI có một bộ phận lên ở làng Đại Mão nên gọi là họ Đỗ ở Bình Ngô – Đại Mão để phân biệt với nhiều họ Đỗ khác.

[10] Cũng theo tác giả Phạm Thuận Thành thì bài thơ này dựa vào điển tích: Liễu Nghị thi hỏng, về qua bể Nam, thấy một người con gái bị đày ở bãi cát. Hỏi thì biết nàng là con gái thần hồ Động Đình, bị chồng nghi oan bắt đi đày. Nàng viết một bức thư nhờ Liễu Nghị đưa cho vua cha để giải nỗi oan cho mình. Liễu Nghị cảm động nhận lời, lúc ông đi qua hồ Động Đình, ông đã trẫm mình để xuống Long cung. Động Đình là một hồ lớn, ở phía đông bắc tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc). Ông Nguyễn dùng điển tích này để tỏ nỗi oan khuất của mình, vì thế hai chữ “Nam Ninh” trong câu “Ai đem người ngọc đến Nam Ninh” không phải để chỉ địa danh nơi ông trẫm mình.

Bài liên quan

Bài đăng mới