Để hàn gắn vết thương chiến tranh, chúng ta phải tha thứ cho chúng ta, tha thứ cho nhau và giúp nhân dân Việt Nam xây dựng lại đất nước

Trần Thái Bình

Tạp chí Xưa&Nay, số 7 (17), tháng 7 năm 1995

LTS. Khi số tạp chí này sắp lên khuôn in thì dư luận đang quan tâm đến các nguồn tin dự đoán rằng Tổng thống Mỹ B. Clinton chỉ nay mai sẽ ký sắc lệnh thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam.

Tin này được nối tiếp sau một chuỗi những bình luận của các quan chức Mỹ bày tỏ sự hài lòng đối với việc chúng ta đã đáp ứng một cách tích cực và có hiệu quả những yêu cầu có tính chất nhân đạo trong việc tìm kiếm những người Mỹ bị mất tích trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

Quả thực, với việc quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ được thiết lập (chứ không phải “nối lại”), một trang sử mới được mở ra trong mối bang giao giữa hai nước. Những trang sử mới mong sao sẽ được viết tiếp bằng những lời tốt đẹp. Nhưng những trang sử cũ của một cuộc chiến tranh đã kết thúc vẫn còn nguyên vẹn những giá trị của nó, mà mọi sự lãng quên sẽ là nguy hiểm không chỉ ở khía cạnh đạo lý mà ở ngay trong tư duy và hành động đối với tương lai.

Cũng mới đây, ngay trên đất Mỹ, nhà đạo diễn điện ảnh nổi tiếng về những bộ phim lấy đề tài chiến tranh ở Việt Nam, Oliver Stone, khi trả lời nữ ký giả người Pháp Gisèle Galante: “Vì sao sau hai bộ phim Trung đội và Sinh ra trong ngày 4 tháng bảy, nay lại làm thêm bộ phim Bầu trời và mặt đất nữa?”; ông đã nói: “Bộ phim này khác xa với hai bộ phim trước, tuy cũng nói về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Đây thực sự là lịch sử của một người phụ nữ Việt Nam, lịch sử một nạn nhân. Những con người đã phải chịu đau khổ một cách kinh khủng mà không một ai ở nước Mỹ có tác động gì. Hơn một triệu người Việt Nam đã chết (mấy trăm nghìn người đã mất tích, nhưng người Mỹ chỉ nghĩ đến sáu mươi nghìn nạn nhân của mình – Đó là một thái độ nếu không gọi là phân biệt chủng tộc, thì cũng hoàn toàn là ích kỷ chủng tộc). Đã đến lúc chúng ta cần đặt lại nỗi đau của mình vào đúng vị trí của nó; đánh giá đúng nỗi đau của người khác”.

Bài học của những trang sử quá khứ sẽ hoàn toàn có ích với tương lai như chính ý tưởng mà ông McNamara đã gửi gắm khi viết cuốn hồi ký của mình, một sự kiện cho đến nay vẫn còn gây chấn động dư luận. Bài viết dưới đây tiếp tục nói về cuốn sách của ông nhưng lại lấy đầu đề bằng lời nói đầy tính khoan dung của bà Morrison, vợ một người Mỹ cách đây đúng 30 năm đã tự thiêu cháy mình để phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Và cuối cùng, chúng tôi cũng muốn nhắc lại rằng trong quá khứ bên cạnh những trang sử đen tối và thù địch còn có cả những kỷ niệm  tốt đẹp như trang báo ảnh Việt Nam độc lập của Bác Hồ xuất bản vào đêm hôm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 mà chúng ta sắp kỷ niệm tròn nửa thế kỷ.

Xưa &Nay

Việt Nam độc lập, tranh tuyên truyền Việt Minh

Hai mươi năm sau cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ ở Việt Nam, thế giới lại vừa bị thu hút bởi sự ra đời, như một trái bom nổ trên đất Mỹ, của một cuốn hồi ký mà tác giả của nó là cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ trong hai đời tổng thống: Đây là cuốn Hồi tưởng: Bi kịch và những bài học Việt Nam (In retrospect: The tragedy and lessons of Vietnam) phát hành tháng 4-1995.

Tác giả của nó đã từng là chủ nhân Lầu Năm Góc suốt 8 năm (từ năm 1961 đến năm 1968) và là người đi đầu trong chủ trương leo thang chiến tranh ở Việt Nam, hăng hái và kiên trì đến mức cuộc chiến tranh lâu dài và ngoan cố, ác liệt của Mỹ tiến hành ở cả hai miền Nam, Bắc Việt Nam đã được mệnh danh là “cuộc chiến tranh của McNamara”.

Đến nay, sau gần 3 thập kỷ tuyệt đối giữ im lặng, từ chối phát biểu, thảo luận về cuộc chiến tranh của mình, nay không phải là bỗng nhiên mà “nhà kiến trúc” cuộc chiến tranh ấy tung ra cuốn Hồi tưởng.

Nhiều nhà phê bình chất vấn ông: Tại sao ông phải đợi đến gần 30 năm sau mới viết quyển sách này? Ông trả lời rằng ông phải chờ tới lúc già hơn và tỉnh táo hơn, trước khi có thể đưa ra một đánh giá thấu đáo và chân thành về cuộc chiến tranh, kết quả đẫm máu và hậu quả sâu nặng của nó.

“Lúc đó, tôi chưa có khả năng để viết nó. Tôi tin rằng lúc này, tôi nhìn vào Việt Nam rõ ràng hơn tôi đã thấy nó trong những năm 60… Tôi viết cuốn Hồi tưởng để bắt đầu quá trình hàn gắn những vết thương còn lại từ cuộc chiến tranh bi thảm đã chia rẽ sâu sắc đất nước và để khuyến khích đất nước học tập từ những sai lầm của quá khứ. Chúng ta phải hiểu những gì đã xảy ra để tránh điều đó xảy ra trong tương lai”.

Đến nay, trong cuốn sách của mình, ông già 78 tuổi nhìn lại quãng đời 8 năm điều khiển bộ máy của Bộ Chiến tranh Mỹ, ông đã thú nhận rằng có 11 nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại thảm hại của Mỹ ở Việt Nam, trong đó có việc đánh giá sai khả năng của Bắc Việt Nam; xem thường chủ nghĩa dân tộc với tư cách là một lực lượng trên thế giới; không nhận ra những hạn chế của các trang thiết bị kỹ thuật cao; không đặt mình ngang hàng bình đẳng với Quốc hội và công chúng Mỹ và chủ yếu là năng lực tổ chức kém.

Ông đã tỏ ra thành thực khi nhận cái sai lầm đã đánh giá quá mức (tức là đã thổi phồng) cái “nguy cơ đối với nước Mỹ” của cái gọi là “sự phát triển của Cộng sản ở các nước châu Á”. Không thể không nói thêm: Chính đấy là sự lừa dối nhân dân Mỹ để dẫn những người con nước Mỹ sang chết ở chiến trường xa này. Chính nó đã được dùng để biện minh cho chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây.

Trong cuốn hồi ký, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã thú nhận những quyết định chủ yếu do ông và những người lãnh đạo cấp cao khác đưa ra trong quá trình chiến tranh trước, đã dẫn đến cái chết của 58.000 lính Mỹ và 3 triệu người Việt Nam. Ông công nhận đó là sai lầm, “sai một cách khủng khiếp”.

Theo ông, cái sai lầm kéo dài sự dính líu ở Việt Nam đã dẫn đến thảm hoạ đối với nước Mỹ: Tháng 11 năm 1963, có 78 lính Mỹ bị chết ở Việt Nam; cuối năm 1964, số lính Mỹ bị chết là 225 và đến khi cuộc ngừng bắn được thực hiện thì con số lính Mỹ tử trận đã lên tới hơn 58.000 người”.

Ông đã không tiếc lời tự chỉ trích bản thân và các quan chức trong chính phủ Mỹ hồi đó, kể cả Tổng thống Johnson, về một loạt những sai làm dẫn tới bi kịch của Mỹ ở Việt Nam. Ông cho rằng vấn đề Việt Nam góp phần làm cho người Mỹ hoài nghi về chính quyền của họ; chính tâm trạng hoài nghi đó làm cho người Mỹ do dự trong việc ủng hộ các nhà lãnh đạo của mình ở những hành động cần thiết để đương đầu và giải quyết các vấn đề trong và ngoài nước Mỹ.

Ông viết: “Tôi rất tiếc vì đã không thúc đẩy một cuộc tranh luận có tính thăm dò về việc liệu có thể theo đuổi một nỗ lực quân sự thắng lợi, trên cơ sở để đổ vỡ về chính trị hay không?”.

Thực ra thì phải nói rằng, hồi ấy McNamara cũng chả cần phải “thúc đẩy một cuộc tranh luận có tính thăm dò” nào, mà trên thực tế những năm đó ông đã có ở trước mắt mình những cuộc phản đối chiến tranh của ngày càng đông người Mỹ từ trong các cuộc biểu tình, rồi đến các cuộc đi bộ vì hòa bình với các biểu ngữ chữ to đòi rút quân Mỹ về nước!

Tờ báo US Today cũng có lý khi viết trong bài xã luận rằng: “Quyển sách ấy chắc chắn không làm hài lòng những người đã mất đi những người thân của họ trên đất Việt Nam hoặc các cựu chiến binh đã trở về nước với những thương tật trên người”.

Dù sao thì cũng đúng như đầu đề của bài xã luận “Sự thú nhận của McNamara: Muộn, nhưng là bài học được làm rõ”.

Về nguyên nhân của những sai lầm, người ta có thể hài lòng ghi nhận sự thành thực của McNamara khi ông nói rằng cuộc chiến tranh đã được lãnh đạo bởi những người, trong đó có ông, không hiểu gì về nhân dân Việt Nam, nền văn hóa hoặc chính trị của Việt Nam. Họ đã đánh giá thấp sức mạnh của tinh thần dân tộc trong việc động viên lực lượng chiến đấu. Họ đã cường điệu hóa tầm quan trọng của cuộc chiến ở Việt Nam và những hậu quả có thể có đối với nước Mỹ. Họ đã lừa dối công chúng và không thừa nhận tính vô hiệu quả của các thiết bị kỹ thuật cao trong cuộc chiến tranh du kích.

Và chính sự thẳng thắn thú nhận ấy có lẽ phần nào cũng làm nguôi ngoai được sự giận dữ có lý của những người từng là nạn nhân của cuộc “chiến tranh Mc Namara”. Điều đó có thể thấy ở cử chỉ mới đây của chị Anne Morrison, vợ goá của anh Norman Morrison, người thanh niên Mỹ năm 1965 đã tẩm xăng vào người và tự thiêu ngay trước cửa sổ của McNamara ở Lầu Năm Góc. Ngày 19-4-1995 vừa qua, chính McNamara đã xúc động đọc bức thư mà ông nhận được từ tay viết của chị. Vợ Morrison cảm ơn ông đã viết cuốn Hồi tưởng. Bức thư viết: “Để hàn gắn vết thương chiến tranh, chúng ta phải tha thứ cho chúng ta, tha thứ cho nhau và giúp nhân dân Việt Nam xây dựng lại đất nước”. Chị gọi sự đánh giá của ông về cuộc chiến tranh là “chân thành” và “dũng cảm”.

Đúng là người ta có thể tán thành thái độ chân thành và dũng cảm của tác giả cuốn Hồi tưởng. Tuy rằng đây là một sự thú nhận muộn màng, nhưng tất nhiên là muộn còn hơn không.

Người ta cũng có thể hoan nghênh lời của ông trong cuộc phỏng vấn ngày 19-4-1995 tuyên bố sẽ dành một số trong khoản tiền kiếm được từ cuốn hồi ký của ông cho dự án “mở cuộc đối thoại giữa những người Mỹ và Việt Nam” về cuộc chiến tranh.

Bởi ông đã có ý định ấy, nên cuốn sách của ông càng xứng đáng được nghiên cứu một cách cẩn thận hơn.

Ống đưa ra một sự bảo vệ có giới hạn đối với các chính sách của Mỹ khi lập luận rằng những sai lầm mà ông mắc phải là những sai lầm “không thuộc về các giá trị và ý đồ, mà là về sự phán xét và các khả năng”.

Phải thế chăng? McNamara và Johnson, trong khi chỉ đạo cuộc chiến tranh chống Việt Nam hồi ấy, đã chỉ mắc sai lầm trong “sự phán xét và các khả năng”, chứ không có sai lầm trong “ý đồ” và sự nhận định “về các giá trị”? Đó là câu hỏi còn tồn tại để người đọc trao đổi với tác giả của cuốn Hồi tưởng. Đó cũng là đề tài còn cần được suy ngẫm thêm. Không phải chỉ để kết luận về cuộc chiến tranh đã qua ở Việt Nam, mà còn là để làm cho phong phú hơn, đầy đủ, chính xác hơn, bài học rút ra từ chiến tranh Việt Nam. Bài học lịch sử cần được làm rõ, để làm lời giải đáp cho những câu hỏi về những vấn đề của hôm nay đối với nước Mỹ.

Bài liên quan

Bài đăng mới