LTS. Bà Thuần Hoa, tác giả bài viết năm nay trên 68 tuổi, Thiếu tá về hưu, là cháu ngoại của Tôn Thất Thuyết. Không phải là người viết sử chuyên nghiệp, bà viết về ông ngoại của mình với nỗi băn khoăn vì sao cho đến nay, 110 năm sau sự kiện Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuất bôn hạ chiếu Cần Vương mở màn cho một cao trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX, nhân vật Tôn Thất Thuyết vẫn chưa được đánh giá đúng với vai trò lịch sử của ông. Có nhà văn viết tiểu thuyết về sự kiện lịch sử này còn mô tả ông như một kẻ võ biền, hiếu sát. Và ngay ở Hà Nội, có tên đường đặt cho hai con trai (Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp ) và con rể (Nguyễn Thượng Hiền) của ông, nhưng chính ông thì… vắng bóng!
Tôn Thất Thuyết là con trai lớn cụ Tôn Thất Đính. Cụ Đính là một võ quan có học, làm đến chức Đề đốc.
Vợ ông Thuyết, con một gia đình khoa cử, làm dâu trưởng của một đại gia, bà xin ý kiến bố mẹ chồng cưới bà hai cho ông Thuyết để thay nhau đi theo ông làm quan ở các tỉnh. Bà hai người Thanh Hóa, con gái một gia đình khá giả, có nề nếp, hai bà sống hòa thuận. Ông Thuyết giữ chức Bố chánh Hải Dương, Tuần phủ Sơn Tây, Tổng đốc hai tỉnh Bắc Ninh – Thái Nguyên, là một quan văn có năng khiếu về võ. Lúc đó ông Hoàng Tá Viêm, một tài năng quân sự thời vua Tự Đức, giữ chức Thống đốc quân vụ đại thần tỉnh Cao Bằng – Bắc Ninh Lạng Sơn. Ông Thuyết được biệt phái sang làm trợ tá cho Hoàng Tá Viêm đem quân đánh bọn Tô Quốc Hán, bọn giặc Cờ Đen, bắt được chủ tướng Lưu Vĩnh Phúc, đã tha cho Lưu Vĩnh Phúc được phép trở về Trung Quốc. Được vua Tự Đức khen ngợi, ông Hoàng Tá Viêm tiến cử ông Thuyết, được nhà vua triệu về kinh đô làm quan võ tới chức Thượng thư Bộ Binh.

Lúc còn làm quan văn ở Bắc, tính tình của ông cởi mở, vui vẻ từ trong gia đình ra ngoài xã hội, nói năng thận trọng, giao du rộng với các thân sĩ, trí thức Bắc Hà.
Thường hay đàm đạo văn chương với Tiến sĩ Nguyễn Quang Bích, một nhà thơ có tiếng ở miền ngoài, ông Thuyết có một tâm hồn thơ nhạy cảm, sâu lắng. Khi nhìn chim én bay trong mưa gió tơi bời, ông cảm thương và hỏi rằng: “Sao chim không bay về nương thân ở chốn đình đài mà cứ bay mãi bên góc rừng mưa gió?”.
Hà sự đình đài hồ bất quy?
Sơn biên phong vũ cộng phi phi.
Vũ trung phi yến
Có đọc bài Thuật hoài (Tự nói chí mình) mới hiểu được nỗi lòng của ông:
Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu,
Giữ lấy Thao, Đà, mạn thượng lưu.
Họp đám cô quân nơi viễn cảnh,
Cầm ba thước kiếm chém quân thù.
Lẻ loi đất Bắc chim hồng nhạn,
Phảng phất trời Nam gió ngựa trâu.
Báo quốc lòng son sông núi tạc,
Gội bao sương tuyết bạc phơ đầu.
Đêm ngày mồng 4, rạng ngày 5-7-1885, phò vua Hàm Nghi rời kinh đô ra đi, trong khói lửa mịt mù, ông cảm thương căn dặn binh lính: “Chú nào còn mẹ còn cha, cho về bảo dưỡng vậy là cho lui…” (Vè thất thủ kinh đô).
Ông Thuyết đã bị chính phục bởi bài thơ và trí thông minh của ông Nguyễn Thượng Hiền, lại có mối thân tình giữa ông với cụ Nguyễn Thượng Phiên nên cho phép Nguyễn Thượng Hiền gặp con gái lớn của ông là Tôn Nữ Thị Ẩn. Ông có hiếu với bố mẹ, nể vợ cả, quý vợ hai, đối xử bình đẳng với các con. Ai ra đời trước làm anh, con trai bà hai sinh trước, con trai út bà cả sinh sau phải làm em. Bà cả có 3 con trai và 1 gái: Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Tuệ, Tôn Nữ Thị Ẩn. Bà hai có 3 con: Tôn Thất Khánh và 2 người con gái. Đặt tên các con giản dị. Con trai tên: Khánh, Tuệ… con gái: Ẩn, Tựu… Làm quan văn không thích áo mũ xênh xang, tiệc tùng, hội họp. Chuyển sang làm quan võ, ăn mặc giản dị hơn, cuộc sống của người chinh chiến. Sau những năm lăn lộn ở chiến trường ngoài Bắc, gian khổ nhưng ông thấy thoải mái, không bị câu thúc, ràng buộc bởi lễ nghi. Bạn bè chung quanh đa số chân tình, quý trọng nhau, ít kẻ thù.
Giờ đây, làm Thượng thư Bộ Binh trọng trách lớn đè nặng trên vai ông. Từ vua đến quan trong triều đình, năm bè bảy mối. Ông không trung quân mù quáng, đặt tổ quốc trên hết. Ông là người có mưu lược, kế hoạch vạch ra, có thể vua Tự Đức không phê chuẩn, phái chủ hòa chống đối. Ông cần vàng, bạc, mua vũ khí, tích trữ thóc gạo, củng cố khu Sơn phòng (Tân Sở) ở Quảng Trị đến Quảng Bình, Hà Tĩnh, Ninh Bình, phía trong từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Củng cố lực lượng chủ chiến trong triều đình, tăng cường quân đội, chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài. Việc trước tiên ông nghĩ đến con người. Đó là ông Nguyễn Văn Tưởng, một người có thế lực ở trong triều đình, có học vấn, mưu lược, tài biện bác, có nhiều người theo ông, nhưng chưa phải là người chống Pháp triệt để. Ông kết thân, tranh thủ được sự đồng tình của ông Quận Tường, do đó phe chủ chiến mạnh hơn lên. Ông Tường giữ việc đối ngoại sau khi vua Tự Ðức băng hà. Về quân sự, ông có hai người tâm đắc là Trần Xuân Soạn và Ông Ích Khiêm. Mặc dù tính ngang tàng, nóng nảy, Ông Ích Khiêm vẫn chịu được ông Thuyết. Hai em trai ông Thuyết không được phong chức tước cao sang, lại được điều đi xây dựng khu Sơn phòng ở Quảng Trị – Quảng Bình.
Ông sa thải người kém cỏi, trấn áp kẻ chủ hòa, muốn đầu hàng Pháp, nghiêm trị quan, lính sách nhiễu dân,… điều đó khiến cho ông có nhiều kẻ thù. Ông luôn nghĩ đến Phan Đình Phùng một con người cương trực, có tài đức, để trấn giữ một khu kháng chiến…
Từ ngày về kinh đô, tính tình ông thay đổi hẳn: Không cởi mở, ít nói, hay trầm ngâm, chìm trong suy tưởng, chỉ thích một mình đơn độc, làm việc thâu đêm. Ít giao tiếp với các quan chức các bộ khác, do vậy ông bị mang tiếng là kẻ khinh người, ngạo mạn…
Vua Tự Đức băng hà, cả triều đình, thần dân hoang mang… Theo di chúc của Tự Đức, Dục Đức lên ngôi. Được một thời gian ngắn, tin tức về việc Dục Đức luôn bị bọn thực dân và các viên quan chủ hòa khống chế biến ông vua thành kẻ thừa phái cho quân cướp nước nên Tôn Thất Thuyết cùng với một số vị quan chủ chiến trong đó có Trần Tiễn Thành đã tìm cách trừ hậu họa bằng cách ép buộc Dục Đức phải tự chết để tìm người khác lên ngôi mưu tìm phương sách cứu nước.
Do đó, trong hoàng tộc và tất cả phe chủ hòa cho ông là độc tài, háo sát.
Họ tung tin thất thiệt, đặt thơ, phú, hò vè, để nói xấu ông: Nước Nam có bốn gian hùng: “Tường gian, Viêm dối, Khiêm khùng, Thuyết ngu – Lại thêm hai thằng vũ phu, Đề Khiêm, Đề Soạn dương mu chịu đòn. Hoặc:
Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết
Tứ nguyệt, tam vương triệu bất Tường.
Việc Phan Đình Phùng công khai chỉ trích ông Thuyết về vụ án vua Dục Đức thì bị ông Thuyết trấn áp, bắt giam, rồi thả ra, đưa về quê an toàn. Chẳng hiểu giữa hai ông có làm phép gì với nhau mà khi ông Thuyết còn ở trong nước thì Phan Đình Phùng đã treo câu đối nhắc nhở mình ghi sáu lời dạy của quan Khâm tướng Tôn Thất Thuyết:
Lâm bình Khâm tướng huấn
Ưu nhục lâm thần tâm.
Thành Thái lên ngôi vua, không thù con cháu ông Thuyết, đã tham gia xử tội cha mình là vua Dục Đức. Cho nên, chị ruột tôi (cháu ngoại Tôn Thất Thuyết) lấy Vĩnh Soái là cháu nội vua Dục Đức.
Vua Kiến Phúc lâm bịnh qua đời. Vua Hiệp Hòa bị phế truất, thực dân Pháp đưa tối hậu thư yêu cầu lập Vua mới, phải thông qua chúng.
Ông Thuyết và phe chủ chiến phản đối quyết liệt. Với sự quyết đoán, ông chọn Ưng Lịch đưa lên làm vua vào năm 1884, lấy niên hiệu Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi còn trẻ, thông minh, giàu lòng yêu nước. Lúc thiết triều là vua, lúc vắng người vua trìu mến gọi ông Thuyết bằng thầy. Khi vua ra ngoài chiến khu, ông cho con trai thứ là Tôn Thất Thiệp theo hầu. Con trai cả là Tôn Thất Đạm phụ trách một khu vực thuộc vùng kháng chiến.
Những năm trước 1885, bà cả không ở hẳn trong tư dinh với ông, phải về trông nom các cụ thân sinh của ông Thuyết đã già yếu. Ông Thuyết ở với hai con trai. Bà cả xin phép bố mẹ chồng, cưới vợ ba để ra vào chăm sóc ông. Bà Ba ở làng Kim Luông, đẹp, con gái một gia đình khá giả. Bà sinh hạ được một gái, bận nuôi con mọn nên bà phải ở lại nhà. Bà cả lại thuyết phục ông chấp nhận để bà giới thiệu bà thứ tư, là bà ngoại tôi. Bà tôi con gái một gia đình giàu có, có nề nếp, các cố ngoại tôi phục tài ông Thuyết nên đồng ý gả.
Ông Thuyết đến một lần thăm bố mẹ vợ, xem mặt cô dâu. Đám cưới không có rể vì bận việc.
Mẹ tôi ra đời cuối năm 1884. Mùa xuân năm 1885, ông cho người ra báo đưa mẹ tôi vào cho ông xem mặt. Mẹ tôi giống bố, đã 6 tháng tuổi, bụ bẫm. Chân đeo chiếc vòng bạc, có viên lục lạc. Ông lúng túng không biết bế, để nằm giữa sập. Chân đạp xuống sập, tiếng lục lạc kêu leng keng, miệng cười reo, mặt nhìn vào người đàn ông lạ. Ông mỉm cười theo, rồi im lặng, trầm ngâm, một chốc nói với bà tôi: “Cô cho con về hãy giữ gìn sức khoẻ”. Mẹ tôi đâu biết rằng cuộc chia ly sắp đến. Vĩnh viễn người con gái út của ông không bao giờ biết mặt bố. Cuộc hôn nhân lý trí, thời gian sống với nhau ít, nhưng đầy tình nghĩa với bà tôi.
Thỉnh thoảng, ông về quê, ở nhà từ đường, làng Văn Thê, cách cố đô 7km (không có nhà riêng), cùng với các vị võ quan bàn bạc việc quân. Tránh bọn do thám, để được yên tĩnh, ông cho các quan bảo vệ về báo cho những nhà ở chung quanh từ đường, đem gà, vịt, trâu, bò, chó đi chỗ khác. Ông quan này doạ dẫm, ai không tuân lệnh, ông tướng chém đầu. Ông đến không ai biết, đi không ai hay, cũng chưa chém một người nào ở trong làng.
Cũng vào đầu năm 1885, ông gọi hai em trai về, ra nhà bố mẹ, ông mời cụ Đính ngồi lên ghế tràng kỷ, ông tự trải chiếu, chắp tay thưa: “Con thật là bất hiếu, không phụng dưỡng được lúc thầy mẹ già, con xin tạ tội”. Ông lạy bốn lạy rồi khóc, toàn đại gia đình đều khóc theo, không ai biết được sắp có một cuộc biệt ly đau đớn.
Đêm mồng 4, rạng ngày mồng 5, tháng bảy Dương lịch (5-7-1885), ông phò vua Hàm Nghi rời khỏi kinh thành, mới cho người đón mẹ và vợ cả lên chiến khu. Cụ Đính chưa kịp chuẩn bị thì bọn Việt gian đến bắt, sau đó đày đi Côn Đảo. Bà ba và bà tư con còn bé quá, không theo được, sót lại con trai út của bà cả là Tôn Thất Tuệ dưới 10 tuổi, bác nông dân nhận là con đẻ. Khi bị bắt, cả hai đều khai nhận là bố con. Giặc tạm tha. Tổ chức kháng chiến bố trí cho trốn sang Xiêm (Thái Lan), rồi mất tích.
Người con gái lớn trở lại cố đô, rồi trở thành vị hôn thê của Nguyễn Thượng Hiền. Trong một tâm trạng vô cùng đau khổ, bà nghĩ đến ông Nguyễn Thượng Hiền, nhưng bà xác định được thái độ của mình, không nên có ảo tưởng. Cụ thân sinh ông Nguyễn Thượng Hiền đang ngồi ghế Thượng thư, ông Nguyễn Thượng Hiền đỗ Hoàng giáp. Bà dứt khoát lánh mặt, gửi lời chia tay. Ông Nguyễn Thượng Hiền đã đi tìm bà, tìm nhiều lần: “Anh tìm em – Ôi! Trăm giận, ngàn hờn, ước chừng cho gặp…” (câu ca Huế). Mãi rồi cũng gặp. Một chiếc đò con, mỗi người mang theo một tiểu đồng chèo ngược lên phía lăng Tự Đức. Sau ba ngày thuyết phục, bà Ẩn buộc phải chấp nhận sẽ đến hôn nhân. Bà sinh được một con trai. Rồi ông Nguyễn Thượng Hiền xuất dương.
Ở Thanh Hóa, bà ba đem các con đi trốn, bị lùng sục, quá khổ cực phải ra đầu thú mới được yên thân.
Khi cụ Phan Bội Châu bị bắt đưa về Huế, mẹ tôi đến thăm. Cụ cho biết ông Nguyễn Thượng Hiền lúc mới sang Trung Quốc có tìm gặp ông Thuyết, hai cha con nói với nhau những gì và ở đâu thì cụ không được biết. Còn cụ lúc mới sang Trung Quốc, nhờ một người của ta ở bên đó dẫn đi gặp ông Thuyết. Cụ báo cáo về tình hình đất nước. Nghe xong, vẻ mặt ông đượm buồn, chỉ nói một câu: “Ở đây không có đất dung thân…”.
Sogny, tên mật thám Pháp, phụ trách từ Thanh Hóa đến Huế, một tay cáo già, biết ăn mắm tôm, hút thuốc phiện, nói thạo tiếng Việt, gọi mẹ tôi đến nói: “Tôi cho cô chiếc ảnh của ông tướng, cô không nên đến chỗ ông Phan Bội Châu nhiều”. Chiếc ảnh đen trắng khổ 18×24, bọn mật thám chụp trộm, khuôn mặt lấy tỷ lệ ba phần tư, mặc áo, đội mũ, giống người nông dân Trung Quốc.
Người trong ảnh đứng tuổi, giống mẹ tôi nhiều. Sau hai cuộc chiến tranh, bức ảnh không còn nữa.
Ông qua đời năm nào, tháng nào không rõ. Nhân dân Trung Quốc viếng câu đối:
Quốc thù bất cộng đới thiên
Vạn cổ phương danh lưu Tượng quận
Hộ giá biệt tài tịnh địa
Thiên niên tàn cốt ký Long Châu
Dịch:
Quốc thù không đội trời chung
Muôn thủa tiếng thơm lưu Tượng Quận
Hộ giá yên tìm đất lẻ
Ngàn năm xương trắng gửi Long Châu.
(Khương Hữu Dụng dịch)
Những ngày cuối đời, nỗi buồn về đất nước ở trong vòng nô lệ, thân phận ly hương, bị kiềm tỏa của đế quốc Pháp và triều đình nhà Thanh, hằng ngày, ông ngồi, mặt hước về phương Nam, với con dao, tay chém xuống đống đá vụn để giải tỏa nỗi đau lòng…
Huế, đầu đông năm 1942
Hà Nội đầu đông năm 1994