Khoan dung xưa và nay

PGS Triết học, Phó Viện trưởng Viện Thông tin KHXH Phạm Khiêm Ích

Tạp chí Xưa&Nay, số 7 (17), tháng 7 năm 1995

Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn

Câu ca dao ấy diễn tả sinh động và sâu sắc tinh thần khoan dung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Cái cốt lõi của tinh thần khoan dung xưa cũng như nay, là ở chỗ chấp nhận, tôn trọng cái khác biệt, ứng xử văn minh, nhân hậu với những người xung quanh. Cuộc sống là đa dạng, đó là lẽ thường tình, nhưng đối xử như thế nào với cái đa dạng, cái khác biệt ấy, đó mới là điều quan trọng. Gạt bỏ tính đa dạng, đẩy sự khác biệt đến thù địch và loại trừ nhau, hay chìa bàn tay thân ái, đầy tình thương với những người khác, cùng chăm lo sự hòa hợp trong cuộc sống cộng đồng?

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ tinh thần khoan dung của dân tộc, xây dựng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau tại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”[1].

Hồ Chí Minh không những chủ trương đoàn kết với tất cả mọi người Việt Nam, mà còn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế rộng rãi: “Theo tinh thần bốn bể đều là anh em, tôi yêu mến thanh niên Pháp cũng như yêu mến thanh niên Việt Nam. Đối với tôi, sinh mạng của một người Pháp hy sinh cũng như của một người Việt Nam đều đáng quý như nhau. Tôi thành thực mong thanh niên Pháp và thanh niên Việt Nam hiểu biết lẫn nhau và yêu mến nhau như anh em”[2].

Với tinh thần khoan dung rộng mở đó, Hồ Chí Minh tiếp nhận các giá trị tư tưởng khác nhau của nhân loại để làm giàu cho bản sắc văn hóa tư tưởng của mình: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước chúng tôi. Khổng Tử, Giêsu, C. Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng nhất định họ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”[3].

Quả thật phải có một quan niệm cởi mở như thế nào về khoan dung tôn giáo, triết học và cả chính kiến nữa, mới có thể nhìn nhận khiêm nhường như vậy được! Ngày nay phát huy tinh thần khoan dung đó có ý nghĩa cấp bách hơn bao giờ hết. Không phải ngẫu nhiên mà cộng đồng quốc tế lấy năm 1995 là năm Quốc tế về Khoan dung. Phát biểu tại lễ phát động năm Quốc tế về Khoan dung ngày 21-02-1995 tại New York, ông Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Boutros Boutros-Ghali nhấn mạnh: “Nâng cao hơn nữa lòng khoan dung là nhiệm vụ của tất cả chúng ta. Các cố gắng của chúng ta phải vượt ra ngoài phạm vi một địa điểm, hay một năm. Một sự cam kết đối với khoan dung là mang tính sống còn đối với sự tồn tại của nhân loại. Chúng ta đã chứng kiến nhiều nỗi đau khổ là hậu quả của sự bất khoan dung. Chúng ta đều biết rằng khoan dung là điều kiện tiên quyết cho một thế giới mà chúng ta mong mỏi. Đó là thế giới của sự phồn vinh và hòa bình”[4].

Nhân dân thế giới đang trải qua một thời kỳ đặc biệt. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, nhân loại đã bước vào một giai đoạn mới của lịch sử. Giờ đây đã có đủ các nguồn lực kinh tế, văn hóa và tinh thần để thực hiện một trật tự toàn cầu tốt hơn. Song những sự căng thẳng mới về sắc tộc, dân tộc, xã hội và tôn giáo đang đe dọa việc xây dựng trong hòa bình một thế giới tốt đẹp hơn. Thời đại chúng ta đang chứng kiến những tiến bộ công nghệ to lớn chưa từng có, song chúng ta lại đang phải đương đầu với nạn nghèo khổ, đói khát, thất học, tình trạng tử vong của trẻ em, nạn thất nghiệp và sự phá hoại thiên nhiên trên phạm vi thế giới ngày càng tăng. Nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ kinh tế suy sụp, xã hội rối loạn, bị đẩy ra ngoài lề nền văn minh chung.

Khoan dung, theo tinh thần triết học và đạo đức, đòi hỏi việc lắng nghe và hơn nữa là việc thấu hiểu người khác. Nó dẫn đến một thái độ tôn trọng lẫn nhau trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với nhà nước và giữa các nhà nước với nhau.

Ngày nay, khoan dung đang bị hiểu lầm theo nhiều cách: Hoặc đó là sự dung hòa, chấp nhận mọi ý kiến khác biệt một cách dễ dãi, vô nguyên tắc; hoặc là cam chịu thụ động, lẩn tránh sự bất đồng; hoặc phổ biến nhất cho khoan dung là sự ban ơn, rộng lượng của người trên với kẻ dưới.

Tất cả những điều ấy đều có nguyên nhân lịch sử sâu xa ở cả phương Đông cũng như phương Tây.

Ở phương Đông, từ bao đời, khoan dung vẫn được xem là phẩm chất của các bậc đế vương. Theo Lão Tử, vua cần hai đức lớn là khiêm hạ và khoan dung. Khiêm hạ, nghĩa là “lấy lòng trăm họ làm lòng mình” (dĩ bách tính tâm vi tâm) và “muốn ngồi ở trên dân thì tất phải lấy lời mà hạ mình” (dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi). Còn khoan dung có nghĩa là rộng lượng, ban ơn, tha thứ: “Người thiện thì ta khen, mà người không thiện thì ta cũng khen, người có đức tin thì ta tin, mà không có đức tin ta cũng tin” (Thiện giả ngô thiện chi, bất thiện giả ngô diệc thiện chi. Tín giả ngô tín chi, bất tín giả ngô diệc tín chi)[5].

Ở phương Tây, thuật ngữ “khoan dung” (tolérance) chỉ xuất hiện trong thời gian có các cuộc chiến tranh tôn giáo vào thế kỷ XVI. Suốt trong nhiều thế kỷ, Giáo hội Cơ Đốc giáo chủ trương bất khoan dung, đàn áp không thương tiếc những người dị giáo. Khoan dung là kết quả của cả một quá trình tiến hoá chính trị – xã hội mà Cơ Đốc giáo buộc lòng phải chấp nhận các tín đồ Tân giáo. Chữ khoan dung ban đầu thực chất chỉ có nghĩa là “những tín đồ Cơ Đốc giáo và những tín đồ Tân giáo (Protestant còn dịch là tín đồ đạo Tin lành) học cách chịu đựng, hay cam chịu đối với nhau”[6]. Phải đến năm 1963, Hội đồng Giám mục Vatican II, với Tuyên ngôn về tự do tôn giáo, mới chính thức thừa nhận rằng tự do tôn giáo được xây dựng trên phẩm giá của nhân cách con người và đó là quyền phổ quát của bất cứ con người nào. Đúng như Claude Geffré nhận định: “Nhà thờ Cơ Đốc giáo đã chuyển biến từ chủ trương khoan dung kiểu ban ơn rộng lượng của kẻ bề trên để tiến sang chủ trương tôn trọng tự do tôn giáo như là một quyền công dân, một quyền cơ bản của con người”[7].

Như vậy là trong quá trình phát triển xã hội, khoan dung tôn giáo cũng như khoan dung nói chung đã từ chỗ mang một nghĩa tiêu cực đến chỗ ngày càng thể hiện lý tưởng tích cực, khi nó gắn chặt với quyền con người và nhà nước pháp quyền. Bàn về khoan dung, Voltaire (1694-1778) viết: “Tôi không tán thành điều anh nói, nhưng sẽ bảo vệ đến cùng quyền được nói điều đó của anh”. Voltaire cùng với các nhà tư tưởng khác như J. Locke, J.J. Rousseau, Montesquieu,… đã đặt nền móng cho quan niệm hiện đại về khoan dung.

Quan niệm hiện đại về khoan dung không chấp nhận thứ khoan dung vô giới hạn. Từ lâu J.S. Mill đã cho rằng: “Giới hạn của khoan dung nằm ở chỗ quyền tự do của cá nhân này đe dọa quyền tự do của người khác”. Nói đến khoan dung và bất khoan dung (tolérance – intolérance) muốn hay không cũng phải thừa nhận có cả những cái không thể khoan dung được (intolérable). Claude Geffré có lý khi phân biệt khoan dung tốt (bonne tolérance) với khoan dung xấu (mauvaise tolérance). Ông viết: “Không phải tất cả đều có thể chấp nhận được. Luôn luôn cần phải phân biệt một bên là từ tâm đối với con người và bên kia là thái độ buộc phải lên án các tư tưởng và việc làm không tương hợp với các quyền con người, với cái mà trong một xã hội nào đó người ta đã đạt tới một sự đồng thuận ở mức độ nhất định”.

Ngày nay, khoan dung được xem như “một hình thức mới của đoàn kết”, “một tên gọi mới của hoà bình”. Muốn như vậy thì phải hiểu “khoan dung không phải là sự chấp nhận giản đơn người khác với tất cả sự khác biệt của người đó, mà là sự hướng tới gần gũi chính con người đó để hiểu anh ta hơn, để thông qua anh ta mà có thể tự hiểu mình hơn, để cùng anh ta chia sẻ và chìa bàn tay thân ái và đầy tình thương nhằm làm cho các giá trị toàn cầu chung cho tất cả mọi người được phong phú thêm bởi đặc thù quý giá của từng nền văn hóa, từng ngôn ngữ, bởi sự sáng tạo không thể thay thế được của mỗi cá nhân”[8]. Khoan dung nay vừa giống lại vừa khác với khoan dung xưa.


[1] Hồ Chí Minh, “Thư gửi đồng bào Nam bộ”, ngày 31-12-1946, Hồ Chí Minh toàn tập, H: Sự thật, 1984, t. 4, tr. 139-140.

[2] Hồ Chí Minh, “Trả lời bà Sốt-xi trong Hội Liên hiệp Phụ nữ Pháp”, ngày 22-9-1946, Hồ Chí Minh toàn tập, H: Sự thật, 1984, t. 4, tr. 161.

[3] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, bản dịch Trung văn của Trương Niệm Thức (Hồ Chí Minh truyện), Nxb. Tâm Liên, Thượng Hải, 1949, tr. 91. Dẫn theo tạp chí Cộng sản, số 5-1995, tr. 14.

[4] UNESCO, Draft declaration International Year for Tolérance (Dự thảo tuyên bố Năm Quốc tế về Khoan dung), bản dịch của Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam.

[5] Xem Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, Đại cương triết học Trung Quốc, quyển hạ, Sài Gòn, Nxb. Cảo thơm, 1966, tr. 400-401.

[6] Chữ “tolérance” có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp “tlenai”, nghĩa là chịu đựng, cam chịu. Xem Dictionary of philosophy and religion: Eastern and Western thought (W. L. Reese, London, New Jersey: Humanities Press, 1994, 11th, edition, p. 580 (Từ điển triết học và tôn giáo: Tư tưởng Đông & Tây).

[7] La tolérance. Pour un humanisme hérétique. Dirigé par Claude Sahel, Paris, editions autrement, 1994, p. 58 (Khoan dung. Vì một chủ nghĩa nhân văn dị giáo).

[8] Fédérico Mayco, Tuyên bố của Tổng Giám đốc UNESCO trước khi bước vào Năm Quốc tế về Khoan dung (Paris, 29-12-1994).

Bài liên quan

Bài đăng mới