Là kinh kỳ thì một số to dân theo nghề làm quan, đó là việc tự nhiên thôi. Làm quan tức là làm việc công, đường cái quan là làm đường mọi người cùng đi.
Người học trò thi đỗ, đi ra làm quan lạy từ cha mẹ; cha mẹ dạy rằng: “Kính vậy thay, cái chức của mày!”. Tức là phải trọng chức vụ của mình, làm tốt và ngay thẳng. Từ biệt thầy, thầy dặn: “Quan là công bộc của dân”, tức là làm quan thì phải phục vụ dân.
Dân gọi quan phủ, huyện ở sát với mình, là quan phụ mẫu, vì quan lo cho dân, như cha mẹ lo cho con.
Người ta nói: “Làm quan thì ăn lộc”, tức là lộc nước để ăn tiêu và đem về lộc dưỡng cha mẹ. Người ta cho làm được lộc để gửi về phụng dưỡng bố mẹ là có hiếu.
Thế nhưng lộc bao giờ cũng bạc, nghĩa là ít quá. Kinh tế eo hẹp đã không đủ trả lương người làm. Ngân sách nhà vua cũng không có là bao. Thí dụ: Ở phố Hàng Gai, hồi năm 1910 có hai bà quan; một bà là cụ Văn, bà có tính hễ thấy hàng mía re là mua. Hỏi sao cụ thích giống mía tầm thường ấy, cụ bảo: “Khi ông nhà tôi vào làm Thượng thư Bộ Lại, chỉ có tôi đi theo. Lĩnh bổng về, một người ăn thì phong lưu, hai người thì thiếu. Tôi bưng cơm lên, ông bảo: ‘Nhà chỉ có hai người, vẽ ra ăn trước ăn sau làm gì?’. Tôi nói: ‘Tôi đói nên ăn trước rồi, mời ông xơi đi’. Mâm bưng vào, nhiều hôm không còn gì. Tôi mua mía re ăn trừ. Béo người đáo để”.
Bây giờ đọc sách Lư Giang tiểu sử của ông Nguyễn Mại, thấy ghi: “Nhân có việc quan, tôi đến làng viếng quan Phụ chính Cơ mật viện đại thần, tức là thủ tướng (tức là ông cụ Văn ấy) – thì thấy ông ở nhà tranh vách đất, tường ngoài là mấy cây hóp. Đến lúc viếng ‘lăng’ chỉ thấy một nấm đất đỏ, bên cạnh lũy tre”.
Một bà Hàng Gai khác, là bà huyện, quan nhỏ thôi. Bà này bán hàng, mỗi năm hai lần đến huyện. Bà kể: “Tôi phải đem tiền cho ông ấy tiêu, chứ lấy tiền của dân thì con tôi khổ”. Bà sợ chồng làm quan, mất âm đức của con.
Một vẻ thanh cao của các ông quan Hà Nội thời đầu Nguyễn là: Cả ba ông thầy lớn của kinh kỳ là Phạm Hội, Nguyễn Siêu, Võ Tôn Phan[1] đều chỉ làm quan ít lâu, rồi lấy cớ là ốm, là sơ cuồng, trở về dạy học.
Nhà nào cũng đem cái gương ông Bùi Bỉnh Uyên, làng Định Công ra dạy con. Ông Uyên được phong tước hầu mà mặc áo vải, ăn cơm hẩm.
Đó là những gương sáng chói, nhưng sự thật thì người ta ít giữ được. Làm quan mà không hạch sách, không vu oan giá họa, chỉ ai cho là nhận, thế đã gọi là quan liêm rồi! Sự thật là thế. Lại thêm thời buổi nhố nhăng, các cụ đồ bảo: “Liêm sỉ đạo táng” – cái đạo liêm sỉ mất, chôn mất! Các cụ lo cho đời sau.
(Trích trong bản thảo Thủ đô Hà Nội)
[1] Thường gọi là Vũ Tông Phan.