Người đàn bà Việt Nam đầu tiên soạn từ điển và Giáo sư De Rhodes

Yolo24h.vn

Trang thông tin điện tử tổng hợp

Trong Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam tại Hà Nội, trên tầng hai có bày một pho tượng sơn son thiếp vàng đặt trong tủ kính trang trọng với lời giới thiệu là Hoàng hậu Diệu Viên vợ vua Lê Thần Tông. Pho tượng nổi tiếng về mặt tạo hình tạc chân dung Hoàng hậu ngồi tọa thiền, nét mặt tươi hiền hậu màu trắng điệp, cổ cao 3 ngấn toát lên ngôi vị cao quý lá ngọc cành vàng, nét mặt thánh thiện, thông tuệ, mắt nhìn thẳng, miệng cười tươi, khoan dung hiền hòa. Pho tượng chân dung này được tạc thờ tại chùa Mật ở Thanh Hóa vào giữa thế kỷ XVII, là pho tượng chân dung màu nổi tiếng đỉnh cao của nghệ thuật thời Lê – Trịnh. Theo sách Kim tỏa thực lục, Trịnh Vương ngọc phả, Hoàng hậu Diệu Viên tên thật là Ngọc Trúc (1595-1660), thứ nữ của chúa Thanh Vương Trịnh Tráng (có một số tài liệu và nhà nghiên cứu ghi nhầm là em gái). Bà đã lấy Cường Quận công Lê Trụ, sau bị tội phải hạ ngục chết. Năm Đức Long thứ 2, tháng 5 năm 1630, bà được chúa Trịnh Tráng gả cho vua Lê Thần Tông và được tấn phong Hoàng hậu.

Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc là một phụ nữ thông tuệ, uyên bác, giỏi chữ Hán, giỏi thơ ca, sùng đạo Phật. Cả cuộc đời về sau bà đã tập trung vào chấn hưng văn hóa, phát triển chữ Nôm, làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt. Bà biên soạn bộ từ điển song ngữ Hán – Việt đầu tiên ở nước ta là Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa gần 3.000 câu, 40 chương bộ: Thiên văn, địa lý, nhân luận, thân thể, phủ tạng, binh khí, nhạc khí, tang tế,…

Đây là bộ từ điển đồ sộ bằng thơ tổng số cả chữ Hán, chữ Nôm là 24.000 chữ chuyển tải chính xác nội dung từ ngữ cần giải nghĩa, dễ nhớ, dễ thuộc. Ví dụ vài mục từ về quan hệ gia đình:

– Tổ mẫu: Là bà nội nay.

– Nghiêm phụ: Thuở này thực ấy cha sinh.

Về thiên văn:

– Kim ô: Mặt trời sáng hồng.

– Thiền luân: Nguyệt sáng trên không làu làu.

– Phong thanh: gió mát bên lầu…

Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa là một kho báu về tư liệu ngôn ngữ mang tính bách khoa thư. Ví như về thủy sản (tôm cá) đã trình bày gần 100 loài, chim trên 50 loài. Đồ vật chiếu, bát, ấm chén gia đình 40 loại, vải 8 loại, gấm 5 loại, là 10 loại, lĩnh 5 loại, the 6 loại, lụa 6 loại. Nhạc cụ cổ hơn 20 loại, dụng cụ bắt cá 15 loại, đồ học trò 20 loại, vàng, bạc, chì 16 loại,…

Thông qua tác phẩm của bà, chúng ta hiểu rõ sự phát triển văn học cũng như kinh tế hàng hóa Đàng Ngoài của thế kỷ XVII thời Lê – Trịnh. Thời chúa Trịnh Tráng, nước ta đã có Phố Hiến giao thương với nhiều nước: Anh, Hà Lan, Indonesia, Thái Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Quốc,… buôn bán các mặt hàng tơ lụa, gấm vóc, trầm hương, đồ gốm, đồ sứ, muối, quặng thiếc,… ở kinh thành Thăng Long đã có thương điếm Hà Lan. Chính trong thời kỳ này đã xuất hiện câu ca:

Thứ nhất kinh kỳ

Thứ nhì Phố Hiến

Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc còn là tác giả của Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh là một tác phẩm có giá trị nghiên cứu về Phật học ở nước ta. Cả hai tác phẩm hiện được lưu giữ tại Viện Hán Nôm với bút danh Trịnh Thị Ngọc Trúc.

Năm 1644, bà Ngọc Trúc tu tại chùa Bút Tháp. Đến năm 1646, bà đã xây dựng lại chùa Bút Tháp với quy mô lớn theo lệnh của chúa Trịnh Tráng. Chùa là cả một công trình chạm khắc đá, gỗ đồ sộ, tạo hình đẹp, tiêu biểu như tượng Phật Bà ngàn mắt ngàn tay độc nhất vô nhị. Chùa Bút Tháp đến nay vẫn đáng được gọi là một đại danh lam, có công lớn của bà Ngọc Trúc. Chính nơi đây đã sản sinh ra làng tranh Đông Hồ nổi tiếng. Trong chùa còn có tượng pháp chân dung tĩnh bà Ngọc Trúc ngồi trong khám thờ, đầu đội khăn, mặc áo tu hành mộc mạc dân dã, đôi mắt mở to nhìn xuống, hai tay buông xuôi, dáng vẻ trầm mặc siêu thoát không vướng bụi trần. Khi giáo sĩ Alexandre de Rhodes ở Thăng Long đã được tiếp kiến bà nhiều lần, có nhận xét rằng bà giỏi Phật pháp giáo huấn kẻ khác, sư sãi gọi bà là Thầy, nghĩa là bậc tôn sư. Ông còn viết về bà như sau: “Bà rất thông chữ Hán, giỏi về thơ. Chúng tôi gọi bà là Ca-ta-ri-na vì bà giống như thánh nữ về nhiệt tâm cũng như về đạo hạnh, về những đức tính tinh thần cũng như sang trọng về dòng họ”[1]. Bà Trịnh Thị Ngọc Trúc là một bà chúa có tinh thần dân tộc cao, có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu, phát triển làm giàu và trong sáng tiếng Việt trong văn học, nghệ thuật, Phật học. Bà là một ngôi sao sáng của phụ nữ trí thức Việt Nam, xứng đáng là một danh nhân văn hóa của nước nhà.


[1] Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài – Chương 12, trang 118, xuất bản năm 1994 – Thành phố Hồ Chí Minh.

Bài liên quan

Bài đăng mới